4. Nếu La Victorine năm trước
là gác áp mái đậm dấu thiếu
phụ Pháp thì căn phòng ông Salvy
dành riêng tôi đặc trưng của quý
ông nước Ý. Nó chiếm hai phần ba tầng
nhà, rộng năm mươi mét vuông. Thảm
nâu. Tủ tiệp với tường nhà màu ghi
xám chia đôi công năng nửa ngủ - làm
việc, nửa phòng tắm - thư giãn. Bệ vệ với giường lớn,
bàn làm việc bày sẵn tư liệu về
Venezia. Gương lớn choán tường. Khăn tắm dày mượt. Ghế cứng,
ghế mềm. Vô số hộp dầu xức. Một cấu trúc mang
thông điệp hài hòa giữa một không
gian sống tôn vinh giá trị con người.
Chủ nhà gõ cửa từng
phòng trao bì thư, lịch trình các
chuyến vaporetto, các nhà hàng
có thể ghé mà không sợ bị
chém chặt, các địa điểm cần tham quan và giấy
đăng ký các món bữa sáng cho
hôm sau .
Khoa học và tỉ mỉ đến mức
yêu cầu khách đăng ký các
món ăn sáng đã được định vị khoanh
vùng trong sáu món. Nhất là với
món trứng nhúng, khách cần phải điền
vào mục ngâm nước sôi đếm chính
xác từng phút. Cách của ông tham
tán văn hóa cũng không tệ. Cầu kỳ vượt xa
thói quen tùy hứng. Một sự chu đáo khiến
tôi phải ái ngại.
Vòng vèo Hà Nội
- Paris - Vienne tới Venezia chẳng lẽ lại lần lữa trước những
gondola óng ả nắng mật ong và rờn
xanh gió biển Adriatic ngoài cửa. Đi
ngõ này hay kênh kia với tôi đều mới
mẻ. Mỗi bước chân trên mặt đất hay mỗi mái
chèo khỏa nước đều là thám hiểm Venezia lắng
nghe bậc cảm xúc bản thân.
Người đang yêu thì gọi
Venezia là thành phố tình yêu theo
nguyên nghĩa. Người thích kịch nghệ thì gọi
là thành phố mặt nạ. Người yêu kiến
trúc gọi thành phố nổi, thành phố của những
cây cầu, thành phố kênh rạch, thành
phố ngõ, thành phố hoa trúc
đào…Chúng tôi cũng gọi
riêng Venezia của mình bằng cái tên
chưa ai từng gọi.
Tôi hít căng
gió mới. Tóc Chị bay mê sáng nụ cười.
Mặt nước vỡ loang muôn mảnh sóng bạc dưới mặt trời. Nhởn
nhơ qua lại bầy gondola đen nhóng, ghế ngồi bọc
nhung huyết dụ tua vàng, dù lộng lẫy như sắp chờ
hoàng đế ngự giá tuần du. Chuông nhà
thờ Santa Maria della Salute nhô vươn bán đảo
bên kia Kênh Lớn rùng rình trầm rung.
Chim bồ câu bay túa nóc giáo đường.
Ngoài cửa vịnh con tàu du hành trắng lừng lững
nhích vào kênh. Bên bờ kè,
cờ Anh, cờ Mỹ, cờ Pháp bay phờ phật trên nóc du
thuyền bóng nhẫy vừa cập bến như bầy cá voi ghếch đầu nằm
thở. Lố nhố, đầu đen, đầu hung, đầu vàng, lớp nối lớp xô
cuộn bên bờ vịnh.
Vừa đúng chuyến
vaporetto chuẩn bị sang bờ bên. Với chiếc
vé mua suốt hành trình, xuống tàu
quên quẹt máy kiểm tra tự động mà
chúng tôi chẳng bị ai căn vặn. Những ngày rong
ruổi vaporetto chúng tôi
không hề gặp nhân viên kiểm tra vé.
Tôn trọng tinh thần tự giác của du khách chăng?
Phải đến hôm rời Venezia ra sân bay Marco Polo
tôi mới thấm cách làm tiền của người
Ý.
Bản đồ trên tay, Chị chỉ huy cuộc
hành thám, còn tôi trong vai sĩ quan
tùy tùng luôn bám sau vài
bước hoặc có lúc thành trợ lý lăng
xăng chạy trước nhó nhoáy bấm ảnh. Từng đến Venezia nhưng
chỉ cho công vụ, có lẽ quen với xe đưa thuyền rước
nên khi bị thả vào khu phố cổ Chị cũng không phải
là người dìu dắt lý tưởng
cho lắm. Không mò ra đường, chỉ huy bỗng dưng cạu cọ, quở
trợ lý ỉ lại, thiếu chủ động như muôn nữ lãnh đạo
trên đời.
Quầy tạp hóa ẩn dưới
bóng bồn cây và vồng hoa trắng nuốt. Thứ hoa giống
hoa trà trắng, ẻo lả và ở dạng khóm bụi.
Ông chủ sạm nắng có khuôn mặt Di-gan, mắt thao
láo, đứng khoanh tay bên chiếc tháp tầng
bày bán nước quả đóng chai và những
miếng cùi dừa bổ miếng to. Người Ý ăn cùi dừa
sống bằng cách dùng một vòi sen làm
từ vỏ sừng của trái dừa luôn tưới nước đều từ đỉnh
tháp xuống những mâm khay cùi dừa bên
dưới. Cùi dừa tươi ngon đến nỗi, tôi nhấp nhứ muốn moi
ngay vài euros lẻ để mua. Nhưng khi nhớ ở nhà
cùi dừa chỉ dùng để ép dầu, làm mứt
và giã vắt nước cốt làm phụ liệu thực phẩm
thì tự nhiên tôi mất hứng.
Hầu như mỗi dinh thự cổ, mỗi nhà thờ
cũ đều ắp dư quang níu bước du khách. Gallerie
Dell’Accademia - tòa nhà hai tầng ốp
đá trắng có cảm giác đồ sộ bằng tòa
nhà sáu tầng hiện đại, chắn sững đầu lối ngõ,
tấp nập khách vào cửa. Tôi hào hứng
muốn ghé thăm, nhưng lại bị Chị kéo buột đi. Nếu sa
đà vào các bảo tàng, các
gallerie ở Vennezia thì không biết khi nào mới
có thể kết thúc chuyến đi.
Tiếc, tôi tần ngần đứng
ngoài tường kính chụp kiểu ảnh ghi dấu. Chị đang bối rối
đối chiếu bản đồ trước hệ thống kênh rạch và
ngõ, đan xen và liên kết với nhau bởi những
cây cầu. Tất cả hao hao giông giống nhau. Có khi
là con ngõ hút dưới hai dãy tường gạch
vút lên với khoảng trời trên đầu hẹp như
bàn tay đặt nghiêng. Quanh co một hồi lại dẫn ra lạch nước
thanh mảnh đủ lọt chiếc gondola. Có khi
là một cây cầu đón lối sang ngang nếu
hông hai khối nhà làm tường chạy dọc
mép nước. Mà cũng có thể là một lối
lát đá song song một dòng kênh nhỡ để
chiếc vaporetto đủ xoay chiều.
Nữ chỉ huy bỗng reo lên chỉ
vào một cửa hàng. Tôi hoa mắt trước những chiếc
mặt nạ lấp lánh sắc màu và trang kim, linh hồn
của lễ hội hóa trang Venezia. Bước vào cửa
hàng, chúng tôi xin phép được ngắm
và… chụp ảnh suông thôi
vì rằng không biết mua mặt nạ về để làm
gì, chẳng có lễ hội nào ở quê
nhà có thể đeo chúng. Không ngờ
ông chủ đầu nuột như trái bóng bàn mới
dễ dàng chấp thuận và cho phép dùng
tạm mặt nạ làm đạo cụ chụp ảnh. Ông còn sốt sắng
cho hay mới tháng trước đúng ngày
này diễn ra ngày Việt Nam ở Venezia và chỉ cho
tôi tấm bích chương cô gái Việt trang
phục Hoàng tộc ngay trước cửa
quán.
Chị bỗng thành con trẻ, dung dăng ướm
mấy chiếc mặt nạ miêu nữ, tạo dáng. Nào gương mặt
thiên thần, mặt ác quỷ, mặt hình chiếc
lá phong, mặt hề, mặt người Mo, thần biển…Tôi
ngồi trên chiếc sopha trắng êm phụp như mây cứ
như là chủ nhân đang chờ bán những chiếc mặt nạ
treo la liệt trên tường và lửng lơ dưới trần
nhà.
Bauta là mặt nạ
phổ biến nhất ở Venezia. Từ Bauta dùng để chỉ
kiểu mặt nạ chứ không có ý nghĩa
gì khác. Nói là mặt nạ nhưng thực
ra là cả một bộ gồm một áo choàng đen gọi
là tabaro, một mũ vành ba
múi đội lên đầu trên áo
choàng đen và một mặt nạ trắng nhợt như mặt hồn ma gọi
là Larva. Mặt nạ này với
hình dạng của nó còn làm biến giọng
nói khác đi với ngày thường. Vì vậy
Bauta là một trong những mặt nạ khiến
để người đeo thành vô danh hoàn thiện nhất. Chẳng
thể nhận dạng ra người dưới áo choàng đó
là ai, đàn ông hay đàn
bà, người giàu có hay kẻ bần
nông.
Moretta có
nghĩa là cô gái da đen. Mặt nạ màu
đen và dành riêng cho phụ nữ, đặc biệt
vì phía bên trong có gắn chiếc
cúc và người đeo phải cắn răng giữ lấy cúc để
khỏi bị rơi. Người phụ nữ đeo mặt nạ này không được
nói nên thường mê hoặc phái
mày râu bởi sự im lặng bí hiểm của
nàng. Đây chính là xuất xứ tại sao lại
mặt nạ còn có tên servetta
muta có nghĩa là cô hầu
câm.
Nghệ nhân tạc khuôn bằng
thạch cao, sau đó lót những lớp giấy đặc biệt, trắng hoặc
màu, quết hồ, chờ khô để lấy ra khỏi khuôn
và bắt đầu vẽ trang trí. Một chiếc mặt nạ được
làm tỉ mỉ tốn hàng giờ, sau đó cần phải
chà cho cũ, hoặc quét những lớp sơn màu
vàng nâu xỉn rồi mới quét sơn nền và
họa tiết, thêm chất liệu trang trí
khác như vải, lông chim, đá quý,
vàng lá…Có những chiếc mặt nạ thực
sự là một tác phẩm nghệ thuật, chỉ dành cho
các nhà sưu tập chứ không đeo trong lễ hội
và tất nhiên cũng giá đặc biệt. Ra đời từ thời
Phục hưng, lễ hội hóa trang Venezia hàng năm
đã đưa người ta thoát ra khỏi luật lệ, phong tục tập
quán cùng cái nhàm chán
để ẩn mình vào những lễ phục khác thường. Nghệ
nhân làm mặt nạ giữ vị trí riêng được
xã hội tôn trọng với những phường hội và luật lệ
riêng của họ.
Lưu luyến từ biệt ông chủ cửa
hàng mặt nạ, tiến mấy chục bước đường bờ kênh
chúng tôi đứng trước màn dây trường
xuân. Một ngách cửa xuyên tường khiêu
khích tò mò dẫn vào khu vườn
trùm bóng cây cổ không
bóng người. Một bình cứu hỏa và la liệt
thùng carton đã sử dụng, được khoét những
ô vuông, ô tròn chất đống
lên nhau, ngả nghiêng như những khối nhà vặn vẹo
sắp đổ sụp dưới gốc cây. Càng đi sâu
vào khu vườn thì càng bừa bộn khối hộp carton.
Giữa con đường hầm, xuất hiện một chiếc bàn và cuốn sổ mở
sẵn đặt cây bút. Hai cô gái
và ba người đàn ông đứng tuổi từ đâu
tiến đến đề nghị chúng tôi tự lấy một thùng
cacton cầm kéo khoét những ô vuông
hay tròn tùy ý và ký
tên mình lên rồi chồng tiếp vào
dãy hộp trong vườn. Thì ra chúng tôi
đang đứng giữa hiện trường nghệ thuật sắp đặt của một nghệ sĩ từ Ai cập đến.
Là một trong những cái nôi của mĩ thuật cổ điển,
Venezia vẫn có sức hút riêng khó cưỡng
với người trẻ. Những chiếc thùng carton, chính
là thông điệp câm nín về những khối
nhà ngả nghiêng sắp sụp! Hãy cứu những
công trình kiến trúc và mỗi căn hộ lửng
lơ áp mái của Venezia đang dần chìm xuống nước.
Người ta có thể cứu được một số phận
đang ngạt nước, nhưng một thành phố, một quốc gia đang đi đến chu kỳ
cuối của suy tàn thì thứ ngôn ngữ nghệ thuật
câm nín kia liệu có cứu được không?
Đã qua chưa, Venezia thuở vàng
son?
5. Đến Venezia
không ngồi gondola cũng chẳng hề gì,
nhưng chưa lướt gót trên những phiến đá
lát quảng trường San Marco, chưa rợn ngợp trong ánh
vàng huyền ảo của ngôi nhà thờ San
Marco xa hoa và tinh xảo thì không thể
nói là đã đến Venezia. Venezia thiếu quảng trường
San Marco thì chẳng còn là Venezia nữa.
Và quảng trường San Marco mà không
có nhà thờ San Marco thì coi như đã
bị mất linh hồn.
Góc quảng trường nơi
bóng nắng chiều che mát, dàn nhạc chơi bản
concerto dành cho vĩ cầm Le Quattro stagionio
(Bốn mùa) của Antonio Lucio Vivaldi (1678-1741) – nhạc
sĩ tài danh con trai nghệ sĩ vĩ cầm của chính
nhà thờ San Marco. Khán giả uống bia,
café quanh những chiếc bàn ghế nhỏ thẽ thọt trao chuyện,
hạn chế tối đa va chạm thìa nĩa, đĩa cốc. Họ là
khách của quán café Florian, bỏ mặc gương
trong khung vàng, ghế sofa nhung, đèn chùm pha
lê tinh tế và những bức tranh cổ giữa những bức tường,
nhao ra ngồi tràn dưới trời lộng gió. Một mình
bước vào gian phòng trống người, tôi bỗng thấy
mình bé nhỏ rồi lại thấy mình lớn lao trong sự
kỳ quặc hơn bao giờ khi biết đây là quán
café từ năm 1720. Đây đó là chỗ ngồi
của Goethe, Honoré de Balzac, Lord Byron, Giacomo Casanova, Charles
Dickens, Richard Wagner, Thomas Mann và Jean
Cocteau…
Người lòng vòng luẩn quẩn loanh quanh từ
các ngõ ngách túa ra chụp ảnh
nhìn ngắm rồi lại tản mác vào các ngõ
ngách chìm sâu trong những khối nhà
gạch đá mòn lũa la liệt các cửa
hàng mua sắm và ăn nhậu. Chim bồ câu
nhao xuống mổ vụn bánh mì như cơn bão đen quẩn
trên đầu. Không biết chim bồ câu đông
hơn hay du khách đông hơn.
Bên dưới con sư tử có
cánh, người nối người chờ đến lượt trèo lên chụp
ảnh. Mấy trăm phát minh ra máy ảnh góp phần đẩy
không ít công trình kiến
trúc bị tàn phá nhanh hơn do con người muốn gắn
hình ảnh của mình bên chúng. Bệ
đá đỡ con sư tử biểu tượng San Marco, một bên
đã bị dấu chân hành hương mài
lõm…Cảm
giác nghẹt thở run rẩy thán phục khi tôi đứng
dưới mái vòm cao chín mươi chín
mét và chồi lên cơn say choáng trước
vàng son chói lộng mà con người có
thể tạo nên dưới trần thế để giãi bày niềm tin
yêu Thượng đế. Một rừng hai ngàn sáu trăm cột
thì đã năm trăm cột đá cẩm thạch, thạch anh,
serpentine và thạch cao tuyết hoa dùng trang điểm cho
bên trong và bên ngoài nhà
thờ. Mỗi cuộc Thập tự chinh, người Venezia lại tha lôi về cột
đá quý tô điểm cho nhà thờ.
Các tấm tranh khảm kính mạ vàng từ thế kỷ XII
nếu diện tích cộng dồn chẳng kém một sân
bóng đá. Bộ tranh khảm lớn nhất châu
Âu mô tả các đề tài trong kinh Cựu Ước
và Tân Ước. Vì thế mà người ta gọi
nhà thờ San Marco là nhà thờ Vàng.
Điểm nhấn trước sảnh nhà thờ
là bộ tứ mã duy nhất còn lại từ thời
Cổ đại. Sau hai ngàn năm trầm thăng mắt chúng như vẫn
phóng ra xung lực, vó tung lên chiếm lĩnh khoảng
không kéo mặt đất lùi lại. Các cơ bắp
sắp nổ tung và mạch máu căng phồng đã tới ngưỡng
nứt vỡ. Với các văn bản lưu tồn nên người ta vẫn chưa
thôi tranh cãi nơi đặt xưởng đúc
chúng : Hy Lạp, Roma, hay
Alexandria?
Chẳng biết chúng tôi
đã lấy đâu sức lực đi quanh một vòng San Marco chang nắng trong lúc gần như
kiệt sức vì đói mệt. Du khách đều cảm
giác đây có thể là lần đầu
tiên và cũng là lần cuối. Hãy đến
đây để thánh Marco ban phước. Buồn vui, phận người
cách xa mấy biết ngày mai. Đến như nhà
hát Phượng Hoàng (Teatro La Fenice) bị
chính người thợ điện của nó đốt cháy hay như cột
tháp chuông gạch đỏ hình con nêm lao
vút trời cũng từng gẫy đổ trong cơn địa chấn. Giờ chúng
đã hồi sinh trong diện mạo xưa nhưng tất cả cứ sáng
choang và gượng gạo vô duyên với cảnh vật xung
quanh.
Thời gian dửng dưng giáng
xuống thân con sư tử già mang đầy thương tổn do thời thế,
mình rệu rã, bù xù ghẻ lở. Vết
thương cũ chưa kịp lành đã chịu thêm vết thương
mới. Nhưng niềm kiêu hãnh sư tử, Venezia vẫn cứ gầm gừ
xoay xỏa kéo dài cơn hấp hối…Sự cao ngạo Cộng
hòa Venezia sẽ không bao giờ trở lại, Chúa ban
ân huệ cho nơi đây cũng hơi quá tay. Chẳng
có lý gì của cải cả thế giới lại tiếp tục đổ về
đây tẩm liệm thêm vàng bạc cho các đền
đài, cung điện trong khi những đứa trẻ châu Phi vẫn bắt cả
ruồi ăn giữa sa mạc, những đứa trẻ sơn nguyên Hà Giang trán hằn sẹo bước chân trần trên gai đá tai mèo vè ăn mèn mèn mốc….
Người phục vụ quần đen chemise trắng ngửa
bàn tay vuông góc đỡ những chiếc khay bạc, chạy
đi chạy giữa những chiếc bàn gỗ dái ngựa ba trăm năm tuổi
để mang đồ ăn ra ngoài sân.
Tha hồ chọn bàn, gọi đồ uống.
Café Florian nổi tiếng đâu kém café
Le Procope ở Paris mà lại không phải chờ chỗ cả tuần. Tội
gì không hưởng. Tuy nhiên đã hưởng thụ
thì không rẻ. Một chocolate nóng 10 euros. Một
trà chanh 9 euros. Cộng thêm âm nhạc Vivaldi 6
euros. Người bồi bàn nhã nhặn:
- Rượu vang và rượu sâm
banh cũng sẵn, hoàn hảo cho một bữa ăn nhẹ nhìn
ra quảng trường...
Tôi giật mình bừng tỉnh
nhìn ra quảng trường. Chị bế đứa trẻ Bắc Phi, đặt lên vai
công kênh cười đùa với nó giữa
không gian chen chúc những người và chim bồ
câu. Mấy người Libya da sẫm đẫm mồ hôi đẩy những chiếc xe
hàng rong. Từng chồng mũ lưới che nắng, túi, quần
áo in đủ loại nhãn mác danh tiếng,
móc dây đeo chìa khóa dật dờ giữa
dòng người nhấp nhô. Đám thanh niên
da đen nhem nhúa gồng lên
ném bịch con giống nhựa dẻo xuống đất bẹp lép như miếng
dán để sau một vài giây con giống lại lẩy bẩy
trỗi dậy trở về hình dáng ban đầu...
(Còn tiếp)