Về Đỗ Phấn, mở ra hai mảng
đề tài cần khai thác: Hội họa Đỗ Phấn và Văn chương
Đỗ Phấn. Mảng thứ nhất, nên dành các nhà
lý luận phê bình Mỹ thuật. Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật,
nhiều năm đứng trên giảng đường giảng dạy Mỹ thuật, ông
đã thành danh trong hội họa mấy mươi năm trước, trước khi đến
với văn chương. Nhiều người lấy hội họa Đỗ Phấn tham chiếu, làm nền,
làm đòn bẩy khi nghiên cứu văn chương Đỗ Phấn. Với
chúng tôi, đó là một thiệt thòi
cho ông. Người đọc thường có hai xu hướng: Hoặc khe khắt
đòi hỏi ông phải khẳng định ngay vị thế trong văn chương
ngang tầm hội họa, hoặc chỉ nhìn nhận như một thú vui
nhàn tản của họa sĩ chen vào văn chương, xem nhẹ lao động văn
chương mà ông đang say mê dấn thân thăng
hoa tới ngưỡng. Chúng tôi nghĩ cần phải có cái
nhìn công bằng với ông hơn. Hãy thử
quên hẳn «họa sĩ Đỗ Phấn» để viết về Văn chương Đỗ
Phấn.
«Gần như
là sống [1]»,
cuốn sách mới nhất là tiểu thuyết thứ tư của
ông xuất bản đầu năm 2013 sau «Vắng mặt" (2010),
«Rừng người» (2011), «Chảy qua
bóng tối» (2012). Mười chương, dưới hình thức trần
thuật tự sự ở ngôi thứ nhất của nhân vật chính
tên Thành, một viên chức độc thân diễn tả
tâm lý trên không gian ba chiều: Bản năng,
tư duy và trí tuệ của con người. Bản năng hay thói
quen sinh hoạt ăn uống và tình dục được kể lại qua
hình ảnh các nhân vật và những mối quan hệ
của Tôi với nhiều người đàn
bà ở các tầng lớp xã hội khác nhau. Tư duy
tôn trọng bản năng là tự nhiên, không định
kiến, không phán xét và áp đặt đạo
đức các hành vi giữ cho chủ thể đứng ở vị trí
khách quan. Trí tuệ chính là bản lĩnh của
nhân vật được nhân giống từ kiến thức, những trải nghiệm
trong tình cảm và công việc không thuận lợi,
kèm thêm niềm ham mê vừa phải với nghệ thuật
giúp cho nhân vật giữ được năng lượng tồn tại cùng đồng
loại giữa những biến náo và tha hóa của xã
hội đương đại.
Nhân vật của Đỗ Phấn luôn bị bản năng và ý thức co kéo bên dưới thẩm thấu đời sống để lựa những điều có thể tương thích mang lại cảm giác yên ổn nhất thời. Ông phơi bày sự ê chề của cái tôi đời sống nhưng không khiêu khích chống lại nó mà là đánh thức mỗi cá nhân thay đổi và điều chỉnh hành vi sống bằng giọng điệu đôi khi bất lực và ngán ngẩm...
Ông sợ ồn náo xung quanh nhưng lại cần nó như một liệu pháp để cân bằng với những bước sóng âm thanh bên trong tâm hồn đang chực phá vỡ lớp vỏ bọc da thịt trần trụi...
Tại sao phải làm
một việc rắc rối là mổ xẻ tác phẩm trong khi bản
thân tác giả muốn ghi nhận chuyển tải cuộc sống qua
cách nhìn tự nhiên, chân thực và
giản dị nhất? Tuy cốt truyện «Gần như là sống»
không phức tạp, tình tiết nhẹ nhàng, văn bản dễ đọc
và cuốn hút nhờ duyên dẫn truyện sinh động
cùng lối so sánh sắc sảo biếm - hài nhưng ý
tưởng đã ngân âm vượt ngoài tầm
tác phẩm. Cuốn sách trao cho ta chính
cái mà nó đang ẩn giấu.
Nó đòi người đọc vận động, phải kiên nhẫn lang thang
ngoặt nghẹo trong vô số những câu chuyện, sự việc li ti diễn
tiến của đời sống thường ngày để nắm bắt được cái gọi
là nỗi ám ảnh. Nó xoay quanh
nhiều khái niệm trong văn chương phân lập
(l’écriture fragmentaire) của dòng văn học
hậu hiện đại (la littérature postmoderne)
mà ông không chủ ý hướng tới: Tính
trung dung; sự hiện diện và ẩn mặt; tính bình
yên và bất ổn. Những mảng vụn ẩn hiện ngổn ngang làm
nên thần cốt của truyện.
Những hình ảnh đầu
tiên của tiểu thuyết xoay vào cảnh quán rượu nơi biển
vắng. Chuyến đi của những người gốc hoặc định cư tại thành phố nhưng uể
oải với cuộc sống nhàm chán trong thành phố, muốn
thoát ra khỏi những «chiếc hộp xinh xắn»,
khao khát sự đổi thay nhất thời bằng chuyến du ngoạn về vùng
hoang dã. Những gì Tôi thấy
thì những người bạn đồng hành: Trọng – Yến,
chàng doanh nhân đương đại tên Phi và
chúng ta đều thấy trên diện phẳng; nhưng khi đã hiện
diện trước cặp mắt sành sỏi của anh ta vụt ánh xạ một thứ
ánh sáng khác lên ý nghĩ rồi lang
thang tới tận cùng ngõ hẻm của các chi tiết sự vật lổn
nhổn dắt díu tới liên tưởng và chiêm nghiệm.
Kể và chiêm nghiệm đan xen. Từ quán ăn ven biển đến
nhà hàng sang trong thị trấn, từ quán trọ
nát tới căn phòng khách sạn, khuôn vẻ hấp dẫn
của người bạn gái thăng hoa hưng phấn đưa họ tới với những cô
gái làng chơi gặp ở ngoài cổng chùa. Cảnh
làm tình kết thúc chương I sau này sẽ được
nhấn nhá lặp lại nhiều lần, cụ thể và luôn
qua đôi mắt tỉnh táo tới thản nhiên cho tới hết cuốn
tiểu thuyết.
Thủng thỉnh,
Thành đưa người đọc trở lại thành phố, bộc lộ từ từ như trang
nhật ký đoạn đời riêng của anh ta thời hiện tại - thời
không bấn loạn. Bối cánh xã hội được đề cập giới hạn
trong phạm vi của đô thị đang đà phát triển, xa với
cảnh áo cơm, xen lẫn một vài hồi tưởng không cảm
xúc về quá khứ. Tối tăm không nằm trong phạm vi chật
chội, nghèo đói mà ở tốc độ đổi thay ngột ngạt được
diễn đạt sắc gọn qua hình ảnh: «Chiếc xe
phóng nhanh như bão. Hình như nó chạy theo
tốc độ cạnh tranh của nền kinh tế thị trường. Vừa lành mạnh, vừa gian
lận. Lành mạnh ở chỗ chạy đúng tuyến, đúng giờ, đủ
khách khi xuất bến. Gian lận ở chỗ nhồi thêm khách bắt
dọc đường và phóng nhanh vượt ẩu. Con đường không tiến
kịp với tốc độ chạy xe. Cả những người đi trên đường cũng vậy.
Đành bỏ lại giữa hành trình những hành
khách kém may mắn… »
(P.13). Giữa bối cảnh đơn chiều, mâu thuẫn trong tiểu thuyết
không phải là những mâu thuẫn lớn lao của cũ
và mới, của giai cấp hay dân tộc, mà đa phần
phát sinh từ những quan hệ tình cảm cá
nhân. Nhân vật Thành, một trí thức,
có khả năng duy trì một cuộc sống tạm ổn,
không chịu chi phối của môi trường bởi anh ta tường tận thấu
đáo hai mặt của nó nên chấp nhận và
bình thản đối diện theo cách của mình. Trong
các tác phẩm văn học, thông thường nguyên do hoàn cảnh xã hội tác động lên con người
nhân vật, nhưng ở tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chính
nhân vật là nhân tố tác động lên sự
hình thành một cách thức tồn tại mới của xã
hội hiện tại cho dù nó không tiêu biểu cho
hình thức nhân vật chính diện hay phản diện
nào.
I/ Tính trung
dung:
Sự hình
thành khái niệm tính trung dung trong tiểu thuyết thể
hiện trước hết ở phương thức xử lý mâu thuẫn đối với
nhân vật chính trên một cốt truyện mờ
và vắng bóng các tình tiết ly kỳ.
Thành không là khuôn thước của cái đẹp
và nhân cách cao thượng sáng ngời
đáng ngợi ca của thời đại để văn chương tải thêm sức
hướng thiện. Anh ta càng hoàn
toàn không gồng lưng vác thói xấu xa, bệnh
hoạn, thủ đoạn của tuyến nhân vật phản diện nên cũng
khó có thể choàng lên cho tiểu thuyết
chiếc áo giá trị giáo dục.
Trung dung nhưng được chọn làm nhân vật chính của
tác phẩm, hội tụ đầy cá tính và
mâu thuẫn, anh ta nhàn nhạt góp mình vào số đông trí thức của đô thị nơi
mà «Giống nhau ở chỗ như tất cả những dân
phố cũ chuyện tốt nghiệp một đại học nào đó với
chúng tôi chẳng phải là việc khó
khăn!» (P.43). Thành, nhân vật trong
tác phẩm của Đỗ Phấn xa lạ với chủ nghĩa giáo điều.
Anh ta là mẫu số chung trần trụi và chân
thực của hiện tại.
Con người ấy, cũng
là người tử tế và sẽ không bao giờ mất đi sự tử tế.
Thấp thoáng chút thương xót nào đó
khi anh ta dừng mắt trên đàn chó gầy trơ
xương, lũ trẻ nghèo không đủ quần mặc, sự chia sẻ
nào đó trước hình ảnh chiếc điếu cày bịt
vòng nhôm gợi đến nhà tù, những chục
nghìn gửi mua quần áo cho con chủ quán trọ, hay
ý thức về sự «điên rồ»,
«khiếm nhã», hay tự nhận
là «đốn mạt» khi để những ham
muốn mơ hồ với Yến, người yêu của bạn, trôi trượt trong đầu.
Tính trung dung
thể hiện quanh việc diễn tả mối quan hệ tình cảm lửng lơ giữa
«Tôi» với Khánh Ly, với Yến… ánh nhìn
châm biếm về công việc cơ quan cũng như đồng nghiệp nơi anh
ta đóng vai trò một kỹ sư, làm cái việc
có cũng được, không cũng không sao. Khánh
Ly xinh đẹp xuất hiện, chuyến đi dã ngoạn nhạt phèo
cùng cơ quan là điểm khởi đầu cho của một cuộc
tình. Chương II - III và IV, không vội
vã, nhân vật nhấm nháp từng sự kiện có thể
gọi là lớn trong tác phẩm: Chuyện cặp kè của
Khánh Ly với trưởng phòng, vụ đánh ghen và
chia tay tất yếu phải xảy ra. Cảm xúc của nhân vật chỉ
òa bột phát khi mối quan hệ đã bị phá hủy ở
lời tự thú: «Chỉ một hình ảnh duy nhất
tôi muốn nó nhòa đi nhưng không thể được.
Khánh Ly!»(P.217)
Tính trung dung
được nhấn nhá qua chi tiết nhân vật quan sát tỉ mỉ tới
lạnh lùng chiếc áo nịt của Khánh Ly vào
lúc cô đang bị tấn công khi người ta chờ đợi ở anh
ta một hành động khác, hay thái độ ngơ ngáo
đề vuột mất hạnh phúc kề bên khi Yến bỏ đi cùng đứa
con tương lai... Nhân vật bộc lộ nhu cầu vượt qua nỗi thất vọng nặng nề
bằng cách làm mình thành xa lạ với xung
quanh.
Tính trung dung
sắc nét qua cách che giấu cảm giác tê
tái tuyệt vọng trước một tan vỡ, được lặp lại dồn dập qua những
ngồi và nhìn:
«Tôi ngồi trong quán nhìn ra mặt
đường nhộn nhịp» (p212). «Hư vô
tôi nhìn ra phố» (p.213)
«Tôi ngồi yên lặng nghe tiếng con
chích chòe đến hót chuyện lép nhép
lan man như tiếng dế» (p.216). Rồi lại:
Tôi ngồi chăm chú ngắm nhìn dáng
tần tảo khiêm nhường con chim cu gáy…
(p.216)
Câm lặng. Bất lực.
Ngồi và nhìn hoặc thủ dâm. Và làm
tình với bất cứ ai khi có cơ hội. Nhạy như màn
hình cảm ứng điện tử iPhone. Trong suốt tác phẩm, trước mỗi
cuộc ra đi hay biến mất: Sự cố tai nạn của người bạn nhỏ thân thiết
là Phi, việc ra đi của Khánh Ly, sự biến mất của Yến
…những hành vi tính dục lặp lại, khủng khỉnh
và tỉ mỉ, như nhu cầu ăn uống, như trò xem tivi bắt
cá nhàm nhạt để đưa vào cơn ngủ dễ
dàng…
Tính dục trong
tác phẩm là chuỗi mắt xích buộc ta phải theo đuổi. Trơ mòn nhưng dai dẳng, tính dục thể hiện sự bất lực hay tuyệt vọng nhưng
còn chứa chan tiếc nuối cuộc sống nơi con người hiệu hữu.
Nhân vật cố làm mất mình trong một cơ thể sinh học
khác. Hai cơ thể ẩn náu trong nhau, không phải
là hành vi yêu đương lãng mạn nhưng cũng
không mang tính khiêu dâm hay bạo lực.
Nó xoa dịu và lấp đi một trống rỗng tinh thần. Điều
cần nói hình như vẫn chưa nói, điều chưa
nói sẽ không nói nữa. Tính trung dung
có hiệu ứng làm xóa mờ nhân vật tới mức phải
biến mất. Đó là cái cách
«Tôi cất mình vào nhàu
nhĩ phố phường»[2]
Biểu đạt này
đúng hay sai, đáng khen hay chê? Đi hết cuốn tiểu
thuyết để thấy cách nhìn Đỗ Phấn: Chối bỏ mọi
phán xét về giá trị.
«Những nghệ sĩ chân chính không rẻ
rúng bất cứ điều gì, họ tự buộc mình phải ngộ
hơn là phán xét…[3]»
II/ Sự hiện diện và ẩn mặt
Dừng lâu trước tựa
đề «Gần như là sống», truy xét hai chữ
«gần như», thử tra trên từ điển
đồng nghĩa, gần nghĩa của từ «Sống» bằng
tiếng Pháp, chúng tôi nhận được một số
kết quả: Tồn tại, cư ngụ, hưởng thụ, tồn vong, ăn ở…
Chúng
tôi muốn dùng đến khái niệm «hiện diện»
ở đây vì nó gần với cả hai nghĩa đời sống
và triết học đề cập trong tác phẩm, chứng minh trạng
thái phân lập của hiện hữu, mở ra nhiều
điểm đặc trưng của khuynh hướng văn chương phân lập
mà các nhà văn tiêu biểu được kể đến
trên thế giới là Maurice Blanchot (Pháp), Tony
Morrison (Mỹ), Jean Sénac (Algérie), Jerzy Nikodem Kosinski
(Ba-lan)…
Thuật ngữ
phân lập, tiếng la-tinh (fragmentum) được định
nghĩa là “mảnh của một vật bị vỡ vụn, như phần
còn lại của cuốn sách, của một bài thơ bị mất
đi” (Littré) [4].
Một vài đặc trưng nổi bật của văn chương phân lập
là phá bỏ quy chuẩn của cấu trúc như luật
phát triển và tháo gỡ cao trào,
không chú trọng xây dựng nhân vật
mà làm mờ nhân vật,
phân tán các chi tiết rời rạc thành nhiều mẩu
mảnh trong thế giới ngẫu nhiên, côi góa đối thoại, hạn
chế bộc lộ cảm xúc chủ quan… Không còn bị
giới hạn về kỹ năng và nguyên tắc, nhà văn tự do
phát triển khả năng tư duy tìm kiếm cái tôi
giữa hỗn mang cuộc sống. Hiệu quả mà văn chương
phân lập mang đến cho tác phẩm
và nhân vật được Maurice Blanchot[5] cô đọng trong một câu sinh động: Lấp
lóa một cô đơn, trống rỗng cả bầu trời, thoi thóp:
ôi, thảm họa! (L’écriture du
désastre – P.219)
Trở
lại với “Gần như là sống” của Đỗ Phấn, để
phác họa được chân dung nhân vật trong tiểu
thuyết, người đọc phải làm công việc liên kết nhiều
mảng chi tiết hỗn mang ngẫu nhiên ấy, chắt lọc lại bằng những
nhát xén sao cho nhân vật từ một kẻ xa lạ trở
thành quen thuộc. Dù ông không quan
tâm đến phương thức xây dựng chân dung nhân
vật nhưng chịu cóp nhặt một số chi tiết, ta vẫn có
vài thông tin diện mạo của nhân vật
Thành qua lời kể về người vợ cũ: “Những
nét quyến rũ đàn ông”,
«thân thể cường tráng và nước da
rám nắng rất phong trần». (P.8); có
“bộ răng di chỉ thời tem phiếu”…(P.247),
qua hành vi tự nhận diện mình bằng kiếm tìm trong
gương: «Tôi kinh hãi trả lại chiếc gương về
chỗ cũ. Phải mất vài tháng sau mới có thể
quên đi được bộ mặt phì nộn biến dạng của mình. Từ
đó ở bất cứ đâu khi nhìn thấy gương tôi đều
cố ý tránh xa...Tôi không bao giờ để
ý đến nó. Hay
chính là không bao giờ để ý đến
mình. (P.289). Thấp thoáng hiện diện, nhưng xa lạ
với bản diện hay chính con người mình, anh ta lập tức phủ nhận
và tìm cách ẩn mình.
Xã hội
trí thức cũng bật tín hiệu hiện diện, nơi
«Mối quan hệ nhằng nhịt thành phố rất hiếm khi
có thể gọi là tình bạn. Tôi không
thể thân thiết với những ông nhàn tản suốt
ngày ngồi nhà bật máy nghe nhạc giao hưởng để
phân biệt cách chơi của những giàn nhạc nổi tiếng thế
giới. Đơn giản chỉ vì tôi không có hai thứ
tối thiểu. Thời gian và máy móc hiện đại. Lại cũng
không thể rượu chè hàng quán liên
miên cũng vì thiếu hai thứ là sức khỏe và
tiền bạc. Không đàm đạo văn chương nghệ thuật với mọi người
vì những gì mình biết thì họ cũng đều biết
cả… », vô hại nhưng trống rỗng
cũng bị phủ nhận, mờ dần qua thái độ xa lánh của
nhân vật. Bật trong tâm thức người đọc câu hỏi:
Tôi cần
gì, tôi khao khát
cái gì?
Các
nhân vật liên quan tới cuộc sống của Thành
không có nhân dạng cụ thể rõ rệt
mà mang một vài đặc tính gợi cho người đọc những tưởng
tượng về tính cách. Đỗ Phấn không tả nhân vật
mà dùng biện pháp sáp gần với một
hình ảnh khác. Đây là phong cách nổi bật của
ông thể hiện thành công và sinh động trong
suốt bốn cuốn tiểu thuyết và nhiều tập tản văn khác
làm nên sức duyên dáng hấp dẫn trong văn
ông. Người đọc không trực tiếp khám phá
nhân vật mà phải thông qua hình ảnh thứ
hai, mập mờ và kém tin tưởng hơn, nhưng có
tác dụng hơn. Cách thức này làm biến mất tiết
diện thứ nhất là đối tượng trực tiếp mà ta chưa kịp thấy
vì không phải là cái mà
tác giả có chủ ý diễn tả, phơi bày ngay một
lớp khác, hàm chứa sự phủ nhận. Phảng phất nụ cười tinh quái: đàn ông mà ông
không ưa lướt qua bàn phím ông thì
“Nét mặt bẳn gắt táo bón,
có gương mặt lâu ngày gặp rất nhiều khó
khăn trong việc đại tiện.” (nhân vật
Khôi trưởng phòng – P.64), phụ nữ ông
không yêu đều “da mặt trông như
sắp sửa xông lên chiếm lĩnh sân khấu nước
nhà” (P.64), hoặc:
“Chiếc bụng núng nính hằn lên từng
múi như những khoang chứa trên tấm đệm nước. Nụ cười toen hoẻn…
(Huyền vợ Khôi - P.83). Các nhân vật khác:
Hương vợ cũ, Trọng, Phong, Khải hay Chi, Quyên không mang
xung đột tâm lý sâu sắc nên dần mờ nhạt
trong tác phẩm. Xung quanh Thành còn tồn lại những
hình thù quái quỷ múa may nhảy
nhót và những hiện diện nhạt
nhòa.
Nhân vật Phi xuất
hiện mang lại không khí hứng khởi cho tác phẩm. Một
doanh nhân trẻ năng động, tử tế, tràn đầy sức sống,
nuôi dưỡng mơ ước trí tuệ là nắm bắt nghệ thuật
đích thực bỗng bị tai nạn, không còn khả năng tự
sinh tồn. Anh bị biến dạng đột ngột, «như một em bé
sơ sinh không có dấu hiệu trưởng
thành»! Người đọc buộc phải chấp nhận sự phũ
phàng của thực tế, phải tập quên, đối diện với chặng đường
trước mắt không còn bóng dáng hiện hữu của
người vừa khơi nên thiện cảm, gần gũi và đành bằng
lòng với một hiện diện mới.
Các
nhân vật của "Gần như là sống" hiện diện rồi ẩn mặt
trong những biến thể của đời sống. Họ vẫn tồn tại dưới dạng cảm xúc
lát cắt, mảnh vỡ nhưng không đáp ứng được ý
nghĩa đích thực của một gương mặt đủ đầy. Họ bỏ mặc cho Thành
một vũ trụ trống hoang lơ lửng những ám ảnh về ý nghĩa hay
giá trị sống của con người. Anh ta đi tìm bản thân
giữa ảo ngộ mờ nhạt ký ức, níu vào bản năng tẻ nhạt,
lộn xộn như chuyển động Brown giữa trường con người...
III/Nền tảng tư tưởng qua phương thức bộc lộ trong
"Gần như là sống»
Lướt qua hành
trình tiểu thuyết của Đỗ Phấn, ta nhận thấy ngay từ cuốn đầu
tiên - tiểu thuyết «Vắng mặt» đã mang những
nét đặc trưng của văn chương phân lập. Từ
đó đến nay, ông kiên
trì với chiến lược văn chương của mình.
Ta cảm thấy ông diễn đạt thoải mái theo mạch cảm xúc
và tư duy mà không bị ràng buộc bởi một
hình thức nguyên mẫu nào. Chúng
tôi nghĩ, có thể tâm thế thời cuộc đã đưa
tác giả đến với văn chương phân lập chứ
bản thân tác giả không dụng ý sử dụng văn
chương phân lập.
Người ta
nói Văn chương là cuộc sống. Nhưng với Đỗ
Phấn, câu nói mang sắc thái ngược lại: cuộc
sống là văn chương. Làm thế nào
mà một cuốn tiểu thuyết, chỉ có một người đàn
ông, từ trang này sang trang khác, chỉ mô tả
những gì anh ta làm, anh ta thấy, anh ta tưởng tượng,
có thể cuốn người đọc đến trang cuối cùng, và gấp
sách chưa phải là hết, còn trằn trọc bao dấu hỏi,
bao giả định và cảm xúc miên man khác về
văn chương, về cuộc đời, về cái cách tồn tại trên đời,
về thế giới cái tôi tưởng rằng đã rọi sáng
nhưng vẫn còn nguyên đâu đó khoảng tối...
"Gần như
là sống" là cuốn tiểu thuyết thành
công nhất của Đỗ Phấn và văn học Việt Nam đương đại về lớp
trí thức xuất thân ở đô thị gạo cội. Tiểu thuyết của
ông trung thành với đời sống đô thị, bối cảnh nơi
ông sinh ra và lớn lên cùng với bể
dâu đất nước.
Phải là người
yêu Hà Nội thiết tha mới trăn trở nhiều đến thế. Như người lẩn
thẩn nâng niu những mảnh vụn của hoài niệm và thời
gian, nhấc lên đặt xuống, trau chuốt trong tản văn, chắt chiu
vào tiểu thuyết. Giữa nhịp sống quay cuồng đô thị,
ông đau. Đau cho tâm thế bất lực và trực cảm
vô nghĩa. Đau cái cách bị ai đó cấu
xé đi ký ức mỗi ngày.
Ý nghĩa của cuộc
đời, niềm vui nỗi buồn nhân vật của ông gắn với
thành phố. Giữa ổn định, là hoài nghi: “Cái
yên tĩnh tuyệt đối đã làm tôi bối rối về một
không gian không có thực!”
(P.275)
Ta thấy như
chính ông đang hốt hoảng hoang mang giữa:
Thành phố không mùi (p326); Thành phố
toàn một màu rêu thời trang làm cho con mắt
nhiều lúc cảm thấy không màu. (p328); Buổi sáng
không màu. (P328). Ông
sợ âm thanh, hương vị màu sắc
của thành phố bỏ ông đi.
Chua
chát, khi khứu giác thị dân
khôi phục lại cảm nhận được mùi cống nồng nặc của
“con sông Tô Lịch ở cửa ô cạn
dòng đặc sánh”( P.329).
Và mê sảng giữa ban
ngày: “Mở tủ lấy quần áo ra mặc,
tôi vẫn nhìn thấy mấy viên bang phiến mòn nằm
lăn lóc ở đấy nhưng tuyệt nhiên không ngửi thấy
mùi gì. Quá sức kinh hoàng. Tôi
đã trở thành một rỗng không trọn vẹn. (P.324).
Hình thức trần thuật tự
sự trong “Gần như là sống” đối
với văn chương phân lập là cách
diễn đạt thuyết phục và khôn ngoan nhất: Nó
phù hợp với tiêu chí hiện thực và
tính xác thực của đời sống. Nó mang tính thỏa
hiệp cho sự hiện diện song hành thường trực của tác giả
và người kể chuyện. Tác giả vừa có thể
tránh được sự soi mói tò mò từ
phía độc giả hẹp hòi định kiến vừa có thể qua
nhân vật mặc nhiên bộc lộ mình. Hơn thế, người kể la
cà trong dòng suy nghĩ của anh ta mà không
cần phải tuân theo trật tự và cũng có thể bỏ lửng những
chuyện đang kể không cần bận tâm cho hồi kết. Anh ta
còn độc thoại nội tâm là còn hiện
diện, còn ý thức, còn cật vấn…cho
dù thế giới xung quanh, các nhân vật Khánh
Ly, Phi và Yến…cùng mọi mối quan hệ xã hội
đang dần vỡ vụn, mờ nhạt và biến mất. Nhưng, dù anh ta hoạt động
không ngừng, di chuyển, làm tình hay kể lể
liên miên những quan sát rời rạc thì đeo đuổi
độc giả vẫn là nhân vật đang kể, nhỏ nhoi, cô đơn
làm sao với vẻ thản nhiên che giấu sự bất lực không
muốn bật thành lời. Nhói lòng người đọc cảm
giác đắng chát, nỗi đau thầm lặng dai dẳng hơn phải chứng kiến
bất cứ một gào thét ẩm ướt
nào.
Hầu hết trong
các tiểu thuyết của Đỗ Phấn đều vắng đối thoại hay nói
đúng hơn những mẩu đối thoại hiếm hoi đều được biên tập lại
thông qua lời kể của nhân vật dẫn truyện. Đối thoại
giúp cho nhân vật trao đổi và cùng
tác giả phát triển tiếp vấn đề, khiến cho không gian
xôn xao âm thanh giao tiếp của cuộc sống. Cắt đi đối thoại
là ngầm báo cho người đọc đối tượng vắng mặt vào
lúc anh ta đang kể hoặc có thể hiểu anh ta đang
trò chuyện trong tưởng tượng. Trong «Gần như
là sống», qua bản tính đa nghi của
nhân vật Thành, chúng tôi nghĩ có
thể tác giả muốn khẳng định sự hoài nghi về
tính chân thực của những thông tin sẽ nhận được từ
ngôn ngữ đối thoại hoặc là sự vô nghĩa - vô
tác dụng nào đó của đối thoại. Sự côi
góa đối thoại trong suốt tác phẩm cũng gieo vào
lòng người đọc cảm giác Thành luôn một
mình đeo đuổi những ý nghĩ của riêng anh ta
và thường rơi vào trạng thái hụt hẫng cô
đơn. Hủy bỏ giá trị của đối thoại, đơn phương rong ruổi trên
hành trình chất chứa đầy những phủ nhận, tiểu thuyết thứ
tư này của ông khẳng định khả năng khai thác
tâm lý nhân vật đạt đến độ điêu luyện, chứng
tỏ vốn hiểu biết thấu đáo và tinh tế con người xã hội
trên nhiều phương diện.
* *
*
Khai thác
thành công sự giằng xé giữa bản năng, tư duy
và trí tuệ con người, “Gần như là sống”
dựng một không gian tâm lý ba chiều mở ra giả định
triết học cho tác phẩm.
Bản năng đòi hỏi
một tư duy mới, tư duy này phải chấp nhận những mổ xẻ của trí
tuệ, chấp nhận câu hỏi ý nghĩa về nó để con người
có thể sống theo ý nghĩa đích thực.
Thế giới mới còn lẩn khuất
và thế giới cũ đã biến mất. Con người tin chỉ có thể
hạnh phúc khi vắng mặt hai thế giới này. Chúng ta sống
trong thời đại của sự bắt đầu không hồi kết, đó là
mê cung thư viện Babel [6]
được viết bởi nhà văn mù, có con chó Argos
tiết lộ nó vừa là Ulysse, Homère, Joyce và
Borges. Ta có thể đi, đi bất tận từ cuộc đời này sang cuộc đời
khác sẽ vẫn chỉ tìm được chính những cuốn
sách cũ được xếp đặt trong một trật tự mới. Nhưng niềm tin của ta sẽ
giảm đi mọi cô đơn tuyệt vọng nhất thời…
Thành
đang ở đâu, anh ta không biết, anh ta sẽ không bao
giờ biết. Bạn đang ở đâu, tôi đang ở đâu,
chúng ta phải tiếp tục đi! Có lẽ Đi là Sống.
N.C – Paris,
ngày 17 tháng 3 năm 2013
[1] Gần
như là sống , 2013, TIểu thuyết của Đỗ Phấn – Nhà
xuất bản trẻ, 392 tr.
[3] Albert
Camus (1913-1960) – Trích lời bài phát biểu tại Thụy
Điển, lễ nhận giải thưởng Nobel văn học.
[4] http://littre.reverso.net/dictionnaire-francais/definition/fragment/32647
[5] Maurice
Blanchot (1907 – 2003): Tiểu thuyết gia, triết gia
và cũng là nhà phê bình văn học
Pháp
[6]
La Bibliothèque de Babel - Jorge Luis Borges (1899 – 1986)