CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Giáo dục

ĐỔI MỚI ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN

Thứ tư ngày 9 tháng 4 năm 2014 12:00 AM

ĐỔI MỚI ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP MÔN NGỮ VĂN
THEO YÊU CẦU PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC 


Nghị quyết số 29 của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 8 (khóa XI) đã xác định Giáo dục và đào tạo Việt Nam cần đổi mới một cách căn bản, toàn diện. Chủ trương chuyển đổi cách tiếp cận chương trình giáo dục từ hướng cung cấp nội dung sang cách tiếp cận hình thành và phát triển năng lực là một trong những đổi mới căn bản. Đổi mới căn bản ấy cần phải tiến hành một cách toàn diện ở tất cả các yếu tố của quá trình giáo dục: từ mục tiêu, nội dung, phương pháp 
đến kiểm tra, đánh giá...Để có cơ sở đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn, không thể không xác định một số nội dung quan trọng: năng lực và năng lực Ngữ văn là gì? Đánh gía năng lực Ngữ văn như thế nào? Từ đó đề xuất hướng ra đề theo yêu cầu đánh giá năng lực với các ví dụ cụ thể. Bài viết này tập trung bàn về các vấn đề đó.

I.  Năng lực và đánh giá năng lực ngữ văn

1. Năng lực

Năng lực là một khái niệm then chốt chi phối việc đổi mới căn bản chương trình giáo dục mới. Có rất nhiều loại năng lực. Nội hàm khái niệm năng lực cũng tùy vào cách tiếp cận và lĩnh vực áp dụng mà hiểu khác nhau. Trong lĩnh vực Chương trình giáo dục mấy năm gần đây, loại năng lực được nhiều nước quan tâm là những năng lực chung/ năng lực cốt lõi. Đây là loại năng lực mà bất kỳ một học sinh nào cũng cần được hình thành và phát triển để có thể đối mặt với những thay đổi và thách thức khi bước vào cuộc sống thực. Bên cạnh đó là các năng lực chuyên biệt do các lĩnh vực/ môn học cụ thể mang lại. Tuy cách phát biểu về năng lực có thể khác nhau nhưng đều thống nhất trong cách hiểu về bản chất của khái niệm này. Có thể nêu lên mấy điểm thống nhất sau:

a) Năng lực là sự vận dụng tổng hợp nhiều yếu tố: kiến thức, kỹ năng, thái độ, tình cảm, ý chí, kinh nghiệm và nhiều nguồn lực tinh thần khác để giải quyết một cách hiệu quả các vấn đề đặt ra trong cuộc sống ( học tập và lao động).

b) Đánh giá năng lực là đánh giá khả năng thực hiện, vận dụng; thông qua làm, qua hành động để đo đếm, xác định chứ không chỉ yêu cầu biếthiểu. Tất nhiên thực hiện/vận dụng ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kỹ năng, chứ không phải thực hiện một cách “máy móc”,“mù quáng”.

Đó là cách tiếp cận mới nhưng không phải xa lạ “từ trên trời rơi xuống” mà nó vốn đã có trong chương trình cũ nhưng chưa được hiểu đúng. Bởi các thành tố cơ bản cấu thành năng lực vẫn là kiến thức và kỹ năng; vì thế muốn hình thành năng lực vẫn phải thông qua kiến thức và kỹ năng. Tuy nhiên nếu chỉ mình kiến thức và kỹ năng, nhất là khi chúng tách rời nhau, thì chưa thể có năng lực thực sự.

2. Năng lực ngữ văn và đánh giá năng lực ngữ văn

Có nhiều cách hiểu về năng lực ngữ văn. Căn cứ vào mục tiêu, tính chất và nội

dung chương trình môn học này từ trước đế nay; từ cách hiểu chung về năng lực, có thể nói năng lực ngữ văn là trình độ vận dụng các kiến thức, kĩ năng cơ bản về văn học và tiếng Việt để thực hành giao tiếp trong cuộc sống. Năng lực Ngữ văn gồm 2 năng lực bộ phận là: Năng lực tiếp nhận văn bảnNăng lực tạo lập văn bản.

2.1) Năng lực tiếp nhận văn bản là khả năng lĩnh hội, nắm bắt được các thông tin chủ yếu; từ đó hiểu đúng, hiểu thấu đáo, thấy cái hay, cái đẹp của văn bản, nhất là văn bản văn học. Muốn có năng lực tiếp nhận phải biết cách tiếp nhận. Tức là dựa vào những yếu tố, cơ sở nào (từ, ngữ, câu, đoạn, hình ảnh, biểu tượng, số liệu, sự kiện, tiêu đề, dấu câu…) để có thể có được các thông tin và cách hiểu ấy.

Đánh giá năng lực tiếp nhận thường dựa vào kết quả của 2 kĩ năng chính là nghe đọc. Nghe và phản hồi các thông tin nghe được một cách nhanh chóng, chính xác, không rơi vào tình trạng “ông nói gà, bà nói vịt”. Việc các nước phát triển trong nhiều kỳ thi phải tổ chức thi nói chính là để kiếm tra năng lực nghe/nói, năng lực trình bày miệng. Do tính chất và yêu cầu tổ chức phức tạp hơn nên hình thức thi nói ít được vận dụng. Việc đánh giá năng lực tiếp nhận chủ yếu dồn vào kĩ năng đọc hiểu văn bản.

Văn bản ở đây cần hiểu theo nghĩa rộng. Đó không chỉ là các tác phẩm thơ văn nghệ thuật mà còn là các loại văn bản không phải là văn chương, như văn bản viết về  lịch sử, địa lý, toán học, sinh học…khoa học thường thức hoặc một thông báo nơi công cộng, một bản thuyết minh công dụng và cấu tạo của máy móc, một đơn xin việc…Nhiều nước gọi đó là văn bản thông tin – một loại văn bản rất gần gũi với mọi người và thường xuyên gặp trong cuộc sống. Về phương diện cấu trúc, bố cục cũng không chỉ kiểm tra mình loại văn bản viết liền mạch trên trang giấy mà còn rất nhiều loại văn bản kết hợp giữa kênh chữ và kênh hình (biểu đồ, đồ thị, minh họa, công thức, tranh ảnh, hình khối, bản đồ…), người ta gọi là văn bản không liền mạch ( Non-Continuous Texts). Tất cả đều là những văn bản cần đọc hiểu và phải dạy cho học sinh cách đọc hiểu mỗi loại văn bản.

Tóm lại, bên cạnh việc yêu cầu học sinh đọc hiểu một đoạn văn, bài thơ; nhà trường cần dạy và yêu cầu các em biết đọc hiểu các loại văn bản thông tin, trong đó có rất nhiều văn bản kết hợp kênh chữ và kênh hình, học sinh phải biết đọc hình kết hợp với đọc chữ để nắm được thông tin và hiểu đúng ý nghĩa của văn bản.

2.2) Năng lực tạo lập văn bản là khả năng biết viết, biết tổ chức, xây dựng một văn bản hoàn chỉnh đúng quy cách và có ý nghĩa. Muốn có năng lực tạo lập phải biết cách tạo lập. Tức là nắm được cách viết một loại văn bản nào đó. Đánh giá năng lực tạo lập thường dựa vào kết quả của 2 kỹ năng chính là nói viết. Kỹ năng nói gắn liền với nghe như đã nêu ở trên. Ngoài việc phản hồi nhanh và chính xác lại các thông tin nghe được; nói phải rõ ràng, rành mạch, lưu loát; từ nói đúng, nói hay đến nói hùng biện… Cũng như kĩ năng đọc ở năng lực tiếp nhận; việc kiểm tra đánh giá năng lực tạo lập chủ yếu dồn vào cho kĩ năng viết văn bản.

Văn bản yêu cầu học sinh tạo lập vẫn là các loại văn bản đã nêu ở phần trên, nhưng có khác ở mức độ, nhất là đối với văn bản văn chương nghệ thuật. Cụ thể là nhà trường chú trọng dạy cho HS cách tiếp nhận văn bản thơ văn nghệ thuật nhưng khó yêu cầu các em tạo lập ra được loại văn bản này. Bởi đây là loại văn bản phụ thuộc vào năng khiếu thiên phú, thiên bẩm không phải muốn là có, cố mà thành. Ngoại trừ một số rất ít học sinh có năng khiếu văn chương thực sự, còn lại đại đa số chỉ nên yêu cầu các em làm quen và nắm được đặc điểm của các thể loại tác phẩm văn chương để làm cơ sở cho việc tiếp nhận văn học tốt hơn, hiệu quả hơn. Nếu có yêu cầu tạo lập cũng chỉ ở một mức độ vừa phải như biết kể lại, tả lại một sự việc, con người, quang cảnh; biết phát biểu những suy nghĩ, cảm tưởng của bản thân một cách trung thực, xúc động… Việc đề thi không yêu cầu bắt buộc phải viết một truyện ngắn hay bài thơ, với việc có một vài học sinh nào đó làm bài dưới dạng truyện ngắn, bài thơ,… là hai chuyện khác nhau, không mẫu thuẫn gì nhau. Cũng như không phải có một số ít học sinh trở thành nhà văn, nhà thơ mà yêu cầu nhà trường phải dạy tất cả mọi học sinh phải biết viết truyện ngắn, tiểu thuyết, làm thơ hay viết tùy bút... Trong khi đó một số văn bản thông thường, gần gũi và thường xuyên phải sử dụng trong cuộc sống thì lại bị coi nhẹ. Hàng loạt học sinh ra đời vẫn không biết viết một bản tường trình, một đơn xin việc, một biên bản cuộc họp cho đúng nội dung và quy cách.

2.3) Để đánh giá năng lực ngữ văn (cả tiếp nhận và tạo lập) cần phải cụ thể hóa các kĩ năng (nghe, nói, đọc, viết) thành nhiều mức độ khác nhau. Theo từng cấp học, phù hợp với tâm lý-lứa tuổi mà yêu cầu từ dễ đến khó, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp…Cũng từ đó mà lựa chọn một phương thức đánh giá cho phù hợp. Chẳng hạn với các kĩ năng nghe và nói, giáo viên chủ yếu thực hiện đánh giá hàng ngày, thông qua các buổi học trên lớp, các hoạt động tập thể, sinh hoạt lớp, đoàn, đội…Các kĩ năng còn lại ( đọc, viết) ngoài việc kiểm tra hàng ngày ( đánh giá quá trình) thường được chú trọng ở các kỳ kiểm tra, thi cuối cấp, cuối lớp ( đánh giá kết thúc).

Đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực khác đánh giá theo hướng cung cấp nội dung. Theo hướng nội dung, mục tiêu đánh giá tập trung vào xem người học biết những gì (nhiều ít); nội dung đánh giá chủ yếu là yêu cầu nhắc lại những nội dung đã học, những gì thầy, cô đã dạy, những bài có trong chương trình và sách giáo khoa; yêu cầu chủ yếu là chứng minh những gì đã có sẵn, ca ngợi và phê phán một chiều, kiểm tra trí nhớ là chính; đề thi và đáp án khép kín, bắt buộc phải tuân thủ theo ý của người ra đề; còn diễn đạt, hành văn phụ thuộc hoàn toàn vào cảm tính, vào cái “gu”của người chấm… Kết quả là học sinh tập trung học thuộc lòng, chép văn mẫu.

Mục tiêu của đánh giá theo yêu cầu phát triển năng lực cần xác định được khả năng vận dụng tổng hợp những gì đã học của học sinh vào việc giải quyết một bài toán mới, đáp ứng các yêu cầu mới trong một tình huống tương tự. Nội dung đánh giá không phải chỉ là những gì đã học mà còn là yêu cầu tổng hợp, liên hệ nhiều nội dung đã học; không chỉ giữa các phân môn trong môn học mà còn cả những hiểu biết từ các môn học khác. Tăng cường yêu cầu HS tìm mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng của bài học với các hiện tượng, sự vật, sự việc, con người…thường xuất hiện trong đời sống sinh hoạt cũng như công việc hàng ngày. Phương thức đánh giá không chú trọng yêu cầu học thuộc, nhớ máy móc, nói đúng và đầy đủ những điều thầy, cô đã dạy… mà coi trọng ý kiến và cách giải quyết vấn đề của mỗi cá nhân người học; động viên những suy nghĩ sáng tạo, mới mẻ, giàu ý nghĩa; tôn trọng sự phản biện trái chiều, khuyến khích những lập luận giàu sức thuyết phục…Muốn thế đề thi và đáp án cần theo hướng mở; với những yêu cầu và mức độ phù hợp; tránh cả hai khuynh hướng cực đoan: “đóng” một cách cứng nhắc, máy móc, làm thui chột sự sáng tạo và “mở” một cách tùy tiện “ không biên giới”, phi thẩm mỹ, phản giáo dục…

Theo tinh thần vừa nêu, hàng loạt câu hỏi tưởng đơn giản mà rất khó cần phải

thống nhất. Chẳng hạn: Thế nào là đề mở ? Các hình thức mở là gì ? Mức độ mở đến đâu ? Đáp án mở như thế nào ? Lấy gì làm tiêu chí chung để so sánh các bài làm của học sinh? Thế nào là ý mới, ý sáng tạo?... Khó có thể nêu lên những tiêu chí và yêu cầu cụ thể nhằm trả lời cho các câu hỏi đó, nhất là trong một bài báo. Chỉ có thể trao đổi, xem xét trên cơ sở các đề thi và đáp án cụ thể. Do đó đòi hỏi các tổ ra đề, các hội đồng chấm thi cần bàn luận kỹ lưỡng trước khi quyết định sự lựa chọn đề và đáp án chính thức.

II. Đề xuất hướng ra đề thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ văn m 2014 

1. Nguyên tắc

a) Kiểm tra toàn diện hơn, bước đầu vận dụng cách đánh giá theo năng lực nhằm xác định đúng năng lực viết và năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh.

b) Yêu cầu vận dụng tổng hợp kiến thức và kĩ năng của nhiều lĩnh vực/ môn học để giải quyết một vấn đề chung, liên quan nhiều đến cuộc sống hàng ngày.

c) Phù hợp với thực tiễn dạy học, không gây sốc cho học sinh và giáo viên

d) Đảm bảo tiệm cận dần đến các yêu cầu khi thực hiện chương trình và sách giáo khoa mới (sau 2015); tổ chức một kỳ thi quốc gia: làm một bài thi tổng hợp để vừa xét tốt nghiệp THPT, vừa xét tuyển sinh đại học.

2.  Yêu cầu ( Tổng điểm được tính theo thang 20 ) gồm:

2.1)  Năng lực đọc hiểu ( 6/20)

a) Kiểm tra kiến thức về tiếng Việt: phát hiện những sai sót về chính tả, ngữ pháp, chấm câu, dùng từ, logic…. chẳng hạn cho một đoạn văn có nhiều sai sót và yêu cầu HS phát hiện những sai sót trong đoạn văn đó. ( 2 điểm)

b) Yêu cầu tóm tắt ý chính của một đoạn văn bản cho trước ( VB có thể là văn học, sử , địa, khoa học tự nhiên…) ( 2 điểm)

c)  Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của biện pháp đó trong một đoạn thơ/ văn cho sẵn ( 2 điểm)

Về lâu dài có thể tăng  số lượng điểm về đọc hiểu và kiểm tra bằng dạng Trắc nghiệm như PISA hoặc Kỳ thi tốt nghiệp THPT bang California ( Hoa Kỳ).

2.2) Năng lực viết ( 14/20)

a) Viết nghị luận xã hội (7 /20 điểm): yêu cầu tích hợp các kiến thức lịch sử, địa lý, đạo đức, văn hóa…) ra theo dạng đề mở và đáp án mở.  

b) Viết Nghị luận văn học (7/20 điểm): yêu cầu phân hóa cao hướng tới tuyển sinh đại học. Đề yêu cầu vận dụng sáng tạo những hiểu biết về kiến thức và kĩ năng văn học để thực hành, phân tích, đánh giá, bình luận, bác bỏ một vấn đề văn học, một văn bản, trích đoạn chưa được học trong SGK hiện hành.

Về lâu dài có thể tích hợp 2 câu này thành một bài viết tổng hợp như bài thi viết của bang California (Hoa Kỳ)

2.3) Đánh giá kết quả:

- Điểm xét tốt nghiệp: những HS đạt từ 10/ 20 điểm trở lên

- Các trường ĐH, nhất là các trường theo hướng XH-NV căn cứ vào tổng điểm 3 câu và điểm của câu 3 để xét tuyển sinh.

3. Đề tham khảo  

Đề thi tốt nghiệp môn Ngữ văn (120 phút, không kể thời gian phát đề)

1)  Đọc và trả lời các câu hỏi sau ( 6/20)

a) Đây là một đoạn văn nháp, trong đó còn mắc phải một số lỗi về ngữ pháp, chính tả, dùng từ, logic…Anh, chị hãy chỉ ra những sai sót đó. ( 2 điểm)

Đoạn văn nháp: “…cái nhìn của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên là một sinh thể có linh hồn với những tính cách đối địch: vừa hung bạo, vừa dữ rằn. Đây là lối nhân cách hóa những đặc điểm vốn có của giòng sông thiên nhiên mà chực quan có thể nhìn thấy.”

b) Đoạn văn sau nói về vấn đề gì ? Hãy đặt tên cho đoạn trích ( 2 điểm)

“ Ở người lớn tuổi ít vận động cơ bắp, nếu chế độ ăn giàu chất Colesteron (thịt, trứng, sữa…) sẽ có nhiều nguy cơ bị bệnh xơ vữa động mạch. Ở bệnh này, colesteron ngấm vào thành mạch kèm theo các ion canxi làm cho mạch bị hẹp lại, không còn nhẵn như trước, xơ cứng và vữa ra. Động mạch xơ vữa làm cho sự vận chuyển máu trong mạch khó khăn, tiểu cầu dễ bị vỡ và hình thành cục máu đông gây tắc mạch. Động mạch xơ vữa còn dễ bị vỡ gây các tai biến trầm trọng như xuất huyết dạ dày, xuất huyết não, thậm chí gây chết người”

(Sinh học - lớp 8. NXB Giáo dục 2007)

c)  Chỉ ra các biện pháp nghệ thuật đặc sắc và tác dụng của chúng trong đoạn thơ sau ( 2 điểm):

Chúng đem bom ngàn cân

Dội lên trang giấy trắng

Mỏng như một ánh trăng ngần

Hiền như lá mọc mùa xuân

(Trang giấy học trò - Chính Hữu)

2.  Cho tình huống sau: Giả sử trong những ngày tháng Năm lịch sử, tại mảnh đất Điện Biên hôm nay, anh, chị được gặp một người anh hùng trong chiến dịch Điện Biên năm xưa… Anh, chị và người ấy sẽ nói với nhau chuyện gì ? Đi thăm những nơi nào? Hãy ghi lại điều đó và phát biểu những suy nghĩ, cảm xúc của mình sau cuộc gặp gỡ ấy. (7/20 điểm)

3. Viết về một nhân vật trong tác phẩm văn học đã để lại cho anh, chị nhiều ấn tượng sâu đậm. (7/20 điểm)

Hoặc: Viết một bài văn trả lời câu hỏi: Cuộc sống sẽ như thế nào nếu thiếu thơ ca ? (7/20 điểm)

Hoặc: Ngôn ngữ thơ Việt Nam rất giàu nhạc tính. Anh, chị hãy viết bài văn làm sáng tỏ nhận định đó qua một đoạn thơ tự chọn. ( 7/20 điểm)

4. Đáp án:

Học sinh không cần chép đề ra giấy thi, chỉ cần ghi rõ làm câu nào của đề.

Câu 1: (2 điểm) mỗi ý đúng sau 0,5 điểm

a)     

- Sai ngữ pháp: Câu thứ nhất trong đoạn văn

- Sai chính tả: dữ rằn; giòng sông; chực quan

- Dùng từ sai: đối địch;

- Sai logic : vừa hung bạo, vừa dữ dằn

Chú ý : khuyến khích những HS nêu được cách sửa nhưng cũng chỉ đạt điểm tối đa ( 2 điểm)

b)     Đoạn trích tập trung nói về bệnh xơ vữa động mạch ( 1điểm)

Tên của đoạn trích : đúng nhất là Bệnh xơ vữa động mạch ( 1 điểm)

Cho ½ điểm những học sinh cũng có thể đặt tên khác như:

- Nguyên nhân của bệnh xơ vữa động mạch

- Tác hại của bệnh xơ vữa động mạch

-  Nguyên nhân, biểu hiện và tác hại của bệnh xơ vữa động mạch

- …

- Không cho điểm khi đặt tên không liên quan gì đến nội dung trích đoạn.

c) Các biện pháp tu từ trong đoạn thơ là ( 1 điểm)

-  Ẩn dụ, đối lập và so sánh (½ điểm)

-  Cho 1 điểm nếu chỉ ra: Ẩn dụ: hình ảnh trang giấy trắng chỉ sự ngây thơ trong sáng của trẻ nhỏ; đối lập: bom nghìn cân với trang giấy mỏng manh; so sánh: trang giấy mỏng như…, hiền như…

- Tác dụng: khắc họa sự tàn khốc của chiến tranh và tội ác của kẻ thù; lòng căm giận và thương cảm của tác giả. ( 1 điểm)

2. Đề văn nghị luận xã hội yêu cầu vận dụng tổng hợp các kiến thức về văn học, lịch sử, địa lý, đạo đức công dân… Cách viết cũng vận dụng tổng hợp giữa kể, tả, biểu cảm, thuyết minh và nghị luận. Nội dung bài nên có 3 ý lớn:

- Kể và tả lại cuộc gặp gỡ: đi những đâu trong những ngày chiến thắng Điện Biên Phủ tại mảnh đất lịch sử này? Không thể kể lung tung mà phải nêu được những địa danh lịch sử quan trọng và có ý nghĩa cả xưa và nay, chẳng hạn:  Đồi A1, hầm Đơ-cat-tơ-ri; Trung tâm chỉ huy Mường Phăng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp… Nghĩa trang liệt sĩ Điện Biên, Tượng đài chiến thắng, Bảo tàng Điện Biên…Có thể kết hợp thuyết minh về các thành tựu của thành phố Điện Biên to lớn xinh đẹp hôm nay.

- Các câu chuyện cũng không thể không tập trung xung quanh chiến dịch Điện Biên lịch sử, chẳng hạn: những tấm gương anh dũng hy sinh vì tổ quốc, những chuyện về sự tàn khốc của chiến tranh, sự dũng cảm, lạc quan của anh bộ đội cụ Hồ,…

- Những suy nghĩ và cảm xúc của mình sau cuộc gặp gỡ cũng cần tập trung vào đề tài Chiến thắng Điện Biên Phủ: đất nước và con người, truyền thống của dân tộc và

trách nhiệm của tuổi trẻ, của bản thân…

Cho điểm tối đa các ý / câu nếu đúng trọng tâm đã nêu, diễn đạt gãy gọn; trừ điểm những bài sơ sài; không cho điểm các bài nói không liên quan gì đến đề tài đã cho.

Câu 3. Tùy vào đề để xác định cách chấm. Chẳng hạn với Đề 1: Học sinh cần nêu lên được 1 nhân vật  trong một tác phẩm văn học nào đó đã học và đã đọc mà mình yêu thích. Nêu được lí do tại sao nhân vật ấy đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng mình; lý do gì cũng được miễn là có sức thuyết phục và càng độc đáo càng hay.

Với đề 2: Học sinh tập trung chứng minh được tầm quan trọng của thơ ca. Chứng minh cách nào cũng được, miễn là có sức thuyết phục; ưu tiên các HS vận dụng được các kiến thức về lí luận văn học như nhiệm vụ, chức năng, đặc trưng của văn học để lập luận về sức mạnh và tác dụng của văn học đối với đời sống con người.

Với đề 3: Học sinh chọn đoạn thơ nào cũng được, miễn là phân tích để thấy thơ Việt Nam rất giàu nhạc điệu. Như thế phải nêu được cách hiểu của mình về tính nhạc trong thơ, hay nhạc diệu trong thơ biểu hiện qua các hình thức nào ? Từ đó làm sáng tỏ qua đoạn thơ tự chọn.

Với đề nào thì cũng phải chú ý xem xét cách thức diễn đạt và những lỗi về kĩ năng viết của học sinh để khuyến khích hoặc trừ điểm.

Hà Nội - 05 tháng 4 năm 2014

 


 

Lưu trữ Skip Navigation Links.
Expand  Năm 2012 Năm 2012
Expand  Năm 2013 Năm 2013
Expand  Năm 2014 Năm 2014
Expand  Năm 2015 Năm 2015
Expand  Năm 2016 Năm 2016
Expand  Năm 2017 Năm 2017
Expand  Năm 2018 Năm 2018
Expand  Năm 2019 Năm 2019
Expand  Năm 2020 Năm 2020
Expand  Năm 2021 Năm 2021
Expand  Năm 2022 Năm 2022
Expand  Năm 2023 Năm 2023
Expand  Năm 2024 Năm 2024
Chia sẻ trên Facebook