III. Một số vấn đề khi thực hiện dạy học tự chọn ở Hàn Quốc
Chương
trình GDPT lần
thứ 7
của Hàn Quốc đã triển
khai thực
hiện
chính thức (
2004 là hết lớp 12 vòng đầu) nhưng đến năm 2007 đã
có sự điều
chỉnh,
vì CT lần
thứ 7
bộc lộ một số hạn
chế, bất cập.
Các nhà nghiên cứu
GD Hàn Quốc đã nêu lên một số vấn đề liên quan trực
tiếp hoặc gián tiếp đến
việc xây dựng và tổ chức thực
hiện
CT, chẳng
hạn:
-
Sự bất hợp lí của cấu
trúc bậc học
trong CT lần
thứ 7
-
Chương
trình phân hóa có tính khả thi kém
-
Sự lạm dụng
các hoạt động tự chọn của các nhà trường
-
Chương
trình tự chọn cho
lớp
11 và 12 ít tính
khả
thi
-
Sự thất bại
trong việc
giảm tải
30% nội
dung các môn học
-
Tính chu kì, toàn bộ và đồng thời của cách biên soạn lại
CT
-
Cơ sở biên soạn dựa
trên khái niệm hẹp của
CT
-
Sự
thiếu
thống
nhất
giữa
nguyên tắc
chung và các nguyên tắc cụ thể
-
Trình độ
nghiệp vụ của
giáo viên thấp
-
Ảnh hưởng
của kì thi vào Đại học – Cao đẳng
Trong phạm
vi bài này, chúng tôi chỉ nêu lên một số hạn
chế liên quan đến CT tự chọn của Hàn Quốc ở
THPT.
Như vừa nêu, với
CT tự chọn
cho lớp
11 và 12, HS có thể
suy nghĩ để lựa
chọn một số khóa học
phù hợp với
khả năng, hứng
thú và định
hướng
nghề
nghiệp
trong tương
lai của mình. Đó là tư tưởng
cốt lõi của
CT cải cách lần này. Tuy nhiên trong thực tế
triển
khai CT đã gặp một số vấn đề cần
phải nghiên cứu, giải
quyết.
4.1) Sự bất hợp lý của cấu
trúc cơ bản của
CT lần
thứ 7
Cấu
trúc cơ bản của
chương
trình lần
thứ 7
bao gồm
hai phần:
CT quốc
gia các môn học chung (National Common Courses Curriculum) vận dụng cho các
lớp từ 1- 10 và
Chương trình các
môn
học tự chọn ( elective- courses curiculum) dành cho lớp 11 và 12. Vấn đề nảy sinh ở chỗ không
thống nhất giữa hệ thống CT và hệ thống nhà trường 6-3-3-4 hiện hành ở HQ. Hệ thống CT chia là
hai phần như đã nêu
nhưng hệ thống nhà trường lại chia làm ba phần: Tiểu học, THCS và
THPT. Ở đây
lớp 10 thuộc
năm
thứ nhất của bậc THPT cùng
với lớp 11 và
12 năm
thứ hai và ba.
Vì vậy, bất cập ở đây
là
GD bậc cao (THPT) độc
lập và chia tách như thế với GD cơ bản dẫn đến sự phức tạp trong quản
lý bởi sự chia tách
hai phần những môn
học chung và các môn học tự chọn. Trong thực tế đã xảy ra nhiều
vấn đề không thống nhất trong hiệu
quả quản lý các
trường THPT, nhất là các trường đặc biệt.
4.2) Chương
trình tự chọn ở
THPT có tính khả
thi thấp
CT
tự chọn
trong thực tế phải đối mặt với
nhiều sự phản đối bởi
nhiều
nguyên nhân. Thứ
nhất, GV phản đối mạnh
mẽ. Họ bị đe dọa bởi
nguy cơ ít việc
làm nhất là những
GV dạy các chủ đề HS ít hứng
thú, ít lựa chọn. Thứ hai, xu hướng
chung của
HS là chọn các chủ đề liên quan và có lợi cho kì thi vào các trường Đại học-
Cao đẳng, mà không hề quan tâm đến
những
nhân tố quan
trọng
khác. Xu hướng
này chiếm số lượng
và tỉ lệ rất
cao so với mục
tiêu thiết kế
ban đầu cho CT tự chọn. Cuối cùng
là
rất
khó khăn cho các
nhà trường
trong việc
thực
hiện với
những
tiêu chuẩn rất mới mẻ và đòi hỏi sáng tạo.
Phần lớn các nhà trường THPT đều chịu sức ép quá nặng khi thực
hiện kế hoạch
này..
4.3) Ảnh
hưởng
của kỳ thi vào Đại học – Cao đẳng
Đây
được
coi là vấn đề trầm
trọng
nhất
trong việc
phát triển
CT của Hàn Quốc
cũng như
triển
khai thực
hiện
CT của các nhà trường. Nó không
chỉ diễn
ra với bậc
THPT mà tác động đến cả
THCS và nhà trường Tiểu học.
“
Nhìn bề
ngoài thì dường như kì thi và các
trường
Đại học-
Cao đẳng ( CEE) không có vấn đề gì. Nhưng
trong thực tế vận dụng,
nó có ảnh
hưởng
rất sâu rộng.
Không hề cường điệu
khi nói rằng
kì thi CEE đã quyết định tất cả mọi
chuyện
liên quan đến CT trong nhà trường. Những
mục
tiêu và tuyên ngôn lộng
lẫy của cơ
quan làm CT hầu
như bị phá sản
hoặc bị bóp méo hoàn
toàn. Hiệu
trưởng,
GV, phụ
huynh và HS , dạy và học đều nhằm tới một mục
tiêu duy nhất là thi vào Đại học-
Cao đẳng.
Nội
dung các môn học, phương
pháp giảng
dạy và thực hành kiểm tra
đánh giá được
quyết định bởi định
hướng
của kì thi này.
Với ý nghĩa đó,
giáo dục hướng
vào kì thi ĐH-CĐ ( GD ứng
thí) đã vô hiệu hóa kết
quả
mong đợi của
việc đổi mới
GD. Chương
trình nhà trường
chỉ còn là sự phản ánh những đòi hỏi của kì thi vào ĐH-CĐ. Các môn học
như nhạc, họa, GD thể
chất không được dạy
hoặc bị
coi thường
và dành hết thời
gian cho các môn học quan trọng
nhằm
phục vụ
cho kì thi ĐH. Chương trình hoạt động ngoại khóa thường
xuyên bị xâm chiếm,
nhường
chỗ
cho các buổi học ôn chuẩn bị
cho kì thi này.
Giáo dục ứng
thí (Examination-centered
education) là vấn đề cần
phê phán mạnh
mẽ nhất ở Hàn Quốc. Vì
nó thấm vào mọi lĩnh vực của
GD ( bao gồm cả quản lý và phát
triển
chương
trình), động cơ của mọi
thực
tiễn
GD đều đổ dồn vào một
phương
diện đáng phê phán ( kì thi CEE). Hiện
nay nhiều
cuộc đổi mới đang được chuẩn bị và đề xuất hướng
giải
quyết vấn đề này.”
Do những hạn chế, bất cập nêu trên mà CT
lần
thứ 7
vừa hết
vòng đầu được 03 năm thì
năm 2007, Hàn Quốc quyết định điều
chỉnh
CT, nhất là bậc
THPT trên cơ sở CT
lần
thứ 7
và gọi là Chương
trình 2007. Một
trong những
phương
diện cần điều
chỉnh của
CT 2007 là :
-
Chương
trình tự chọn cần được
nhấn mạnh.
Trong phạm
vi khái niệm này, thuật
ngữ “tự chọn”
dành một
phần
cho UBGD các tỉnh
thành và HS có thể thực
hiện. Điều này làm nên cốt lõi của tư tưởng “phi tập
trung hóa trong việc
soạn
thảo
CT”và những mục
tiêu quan trọng
khác.
IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG VIỆT
NAM
Hàn
Quốc là một nước có rất
nhiều điểm tương đồng với
Việt
Nam về nhiều phương
diện.
Việc
tham khảo học tập từ GD Hàn
Quốc là cần
thiết và nên khảo sát thật cụ thể. Từ
nghiên cứu về CT
phân hóa , đặc
biệt là CT tự chọn ở
THPT Hàn Quốc,
chúng tôi có một số đề xuất và kiến
nghị
sau đây.
1)
Về hệ thống
GDPT, Việt
Nam có khác với Hàn Quốc. Hàn Quốc theo theo mô hình 6-3-3, tức là 6 năm Tiểu học,
3 năm Trung học Cơ sở và 3 năm Trung học Phổ thông. Như vậy,
khác với
Việt
Nam, bậc
Tiểu học của Hàn Quốc kết
thúc ở lớp
6, trong khi giống Việt
Nam, bậc
Trung học cơ sở của Hàn Quốc kết
thúc ở lớp 9
và bậc
Trung học
Phổ thông kết
thúc ở lớp
12.
Tuy
vậy
như đã nêu ở trên, cấu
trúc bậc học của Hàn Quốc được coi là không tương thích, thiếu hợp lí so với cấu
trúc nội
dung CT; vì thế Việt
nam vẫn nên giữ hệ thống
phân cấp
trong GDPT như hiện hành.
2) Về tổ chức dạy học
phân hóa và tự chọn. Từ
kinh nghiệm của Hàn Quốc,
Việt
Nam nên tổ chức dạy một
CT cơ bản từ lớp
1- 9. Năm lớp
10 dùng để bổ
khuyết,
hoàn thiện và dự hướng
phân luồng
(track) cho 02 năm
cuối của THPT.
Từ lớp
11 đến 12 học
theo tự chọn. Như thế 10
năm đầu học
chung một
chương
trình, chỉ có các hoạt động tự chọn và hoạt động ngoài giờ lên lớp (ngoại
khóa). Đến 2 năm cuối THPT mới
thực
hiện các
khóa học tự chọn.
Tuy nhiên xây dựng và thực hiện
CT tự chọn
như Hàn Quốc
thì Việt
Nam chưa
thể làm được và không đủ điều
kiện
thực
hiện,
nhất là với các môn học tự chọn
chuyên sâu, ở các lĩnh vực và nội
dung tự chọn hết sức
phong phú, đa dạng.
Vì
thế chỉ nên học tập Hàn Quốc ở phần các
môn học tự chọn cơ bản
và tổ chức
biên soạn,
giới
thiệu một số chủ đề của các môn học tự chọn
chuyên sâu ở một số lĩnh vực (ngành học)
phù hợp và khả
thi với
Việt
Nam. Chính CT tự chọn
chuyên sâu của Hàn Quốc cũng đang được
coi là thiếu tính khả
thi.
3) Mở rộng
quyền tự chủ cho
các địa phương
và trường
học
trong việc tổ chức và thực
hiện
CT, giảm tính chất “tập
quyền” của
CT. Nhà trường được phép mở rộng
các hoạt động hợp lí. Nguyên nhân
chính là nhà trường
cần được tạo cơ hội
nhiều hơn
trong việc nâng cao năng lực của họ về vận dụng
CT với các công việc liên quan. Nó cũng hướng tới động viên khuyến
khích học
sinh tự học,
tự
nghiên cứu độc lập
hoặc các hoạt động sáng tạo
trong nhà trường.
4) Có thể thấy,
trước
2007 Chương
trình GDPT Hàn Quốc về cơ bản
không khác mấy CTGDPT Việt
Nam, nghĩa là cũng
mang tính “tập
quyền” rất
cao, bắt
buộc đối với tất cả các bậc học,
từ mẫu
giáo đến trung học
phổ thông, áp dụng cho mọi
loại hình trường,
cả tư thục và công lập. Quy định
chặt
chẽ mục
tiêu giáo dục, các môn cần dạy
trong từng
năm học, số ngày học và phân bố thời
gian cho từng
môn học
trong từng
năm. Chương
trình được tiêu chuẩn hóa và quy định
chặt
chẽ các tiêu chuẩn để biên soạn sách giáo khoa, cung cấp
những
hướng
dẫn tổng
quát cho hoạt động dạy – học và phương
pháp đánh giá.
Đến lượt mình, SGK chi phối sâu sắc đến hoạt động dạy – học....
Tuy nhiên ngay cả với
CT hiện hành ( CT lần
thứ 7
và 2007), GD Hàn Quốc cũng đã gặp
phải không
ít hạn
chế. Mặc dù thế,
trong thời
gian qua, nhất là 10 đầu thế kỉ
XXI, GD Hàn Quốc vẫn đạt được nhiều thành tích. Năm
2006 là nước
tham gia Chương
trình đánh gía
HS quốc tế
(PISA), Hàn Quốc đã đạt kết
quả rất
cao, chỉ đứng sau Phần
Lan, xếp hạng
thứ 1
về năng lực đọc-hiểu,
thứ 2
về
Toán và thứ 7
về
khoa học
trong số 30
nền
kinh tế thành viên của tổ chức
OECD.
5) Từ nhận
thức trên, chúng tôi xin nêu lên một số
kiến nghị về phương hướng cấu trúc CT theo yêu cầu tích hợp và phân hóa như sau:
Tích hợp mạnh mẽ ở tiểu học và THCS, phân hóa mạnh ở THPT bằng tự chọn theo hướng: học chung một mặt bằng tri thức cơ bản kết hợp tự chọn ở các môn cơ bản theo các lĩnh vực KHTN và KHXH-NV và KHUD (ứng dụng). Cần giảm các môn học bắt buộc, tăng tự chọn: các nước phát triển số lượng môn học bắt buộc rất ít ( thường chỉ khoảng 6-8 môn). Xác định hệ thống các năng lực cốt lõi và cụ thể hóa các năng lực ấy bằng hệ thống chuẩn kiến thức và kỹ năng cần đạt, sau đó lựa chọn các môn học chính (core subjects).
Các môn học này nhằm tạo nền tảng cơ bản về tri thức và kĩ năng kinh điển. Các môn học tự chọn sẽ hướng tới phát triển tri thức và kỹ năng hiện đại, rèn luyện năng lực sáng tạo, linh hoạt trên nền tảng cơ bản (kinh điển). Cần xác định lại sự phân bố các môn học ở mỗi cấp ( trình độ) để có được sự phân bố một cách hợp lí theo các mức độ khác nhau:
- Môn học xuyên suốt cả ba cấp
- Môn học chỉ có ở một cấp hoặc hai cấp
Ngay trong mỗi cấp số môn học không nhất thiết phải xuất hiện đều ở tất cả các lớp. Chẳng hạn môn sử ở lớp 11 nhưng địa lí lớp 12 hoặc ngược lại. Nghĩa là cũng cần xác định:
- Môn học xuyên suốt toàn cấp
- Môn học chỉ có ở 1 hoặc 2 lớp cụ thể
Cần tăng cường nghiên cứu tích hợp các lĩnh vực tri thức gần nhau thành môn học tích hợp để vừa tác động, củng cố cho nhau; vừa hạn chế số lượng và tránh trùng lặp, vênh lệch trong thông tin, sự kiện... Ngoài ra, Tích hợp cũng cần được xem như là một định hướng mang tính PPDH nữa.
6. Điều kiện để tổ chức thực hiện dạy học tự chọn,
a) Về cơ sở vật chất và thiết bị:
- Điều kiện cần là có phòng học để thực hiện học 2 buổi ngày ở tất cả các cấp/ lớp học. Vì điều này liên quan rất nhiều đến thời lượng và hình thức tổ chức dạy học phân hóa đặc biệt là dạy học tự chọn.
-
Có những trang thiết bị tối thiểu cho việc dạy học ở những địa phương, nhà trường vùng khó khăn.
-
Hiện đại hóa cơ sở vật chất thiết bị dạy học ở những nơi có điều kiện.
b) Về giáo viên:
- Cần đào tạo ngay GV trong các trường sư phạm theo những định hướng, yêu cầu của dạy học tự chọn và tích hợp.
- Tổ chức bồi dưỡng thật kĩ và có chất lượng GV hiện hành ( đào tạo lại) về các yêu cầu dạy học tự chọn.
7. Những kiến nghị khác
- Nhìn chung nên tổ chức dạy học theo tín chỉ (credit), nhất là ở cấp THPT. Quy định số chứng chỉ cho mỗi môn học và cả cấp học; số chứng chỉ cho các môn học bắt buộc và chứng chỉ cho các môn tự chọn. Người học có thể thanh toán các chứng chỉ này một cách chủ động, không cần theo thứ tự lớp học... Như thế cần tổ chức học tập theo hình thức tự chọn như các nước phát triển đã và đang thực hiện.
- Đa dạng hóa các hình thức dạy học, học trên lớp, học trực tuyến ( e-learning), học từ xa ( distance learning)... Tăng cường thực hành và vận dụng hiểu biết vào các tình huống thực tiễn; tổ chức để HS đi thực tế nhiều hơn, tham gia vào các hoạt động xã hội, hiểu biết và gắn bó với đời sống hơn nữa...
Hà Nội tháng 3/2012
Đ.N.T
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
1)
Gwang- Jo Kim ( Derector of UNESCO
Bangkok) 2009 - Expansion of Education in
Korea
2) Education in Korea 2007-2008- Ministry of Education & Human Resource Development Institute
3)
KEDI (2007)- Understanding Korea Education- Copyright Published by the Korean
Educational Development Institute.
4)
INCA- htttp://inca.org.uk – Korean education
5)
KICE- 2006. National
Curriculum. http://www.kice.re.kr
6)
KICE - Proclamation of the Ministry of Education and Humamn Resources
Developement 2007-79
7)
KEDI- http://eng.kedi.kr
8)
Đỗ Ngọc
Thống
( 2010) - Giáo
dục Hàn
Quốc và
đôi điều suy nghĩ - KHGD số 59
9)
Đỗ Ngọc
Thống
( 2010)- Quy
trình phát triển CTGDPT từ
góc
nhìn
so sánh –
KHGD số 61
10)
Đỗ Ngọc
Thống
( 2010)- Đổi mới CT và
SGK giáo dục phổ thông -
KHGD số 62