ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HỌC TẬP
MỘT MẮT XÍCH TRỌNG YẾU CỦA ĐỔI MỚI GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
Nền
giáo dục Việt Nam đang đứng trước yêu cầu “Đổi mới
căn bản, toàn diện” theo hướng “chuẩn
hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
dân chủ hóa và hội nhập quốc tế”như
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã nêu. Để
đáp ứng được yêu cầu đó, riêng
giáo dục phổ thông (GDPT) đã có
quá nhiều việc phải làm. Trong bối cảnh hiện nay, một
mâu thuẫn như là bài toán
khó được đặt ra: cần đổi mới đồng bộ và toàn
diện nhưng không cào bằng, không đánh
đồng tất cả. Có nghĩa là từ thực tiễn giáo dục
Việt Nam cần phải suy nghĩ, phân tích để xác định
được một số mắt xích trọng yếu- các yếu tố chịu tải căng
nhất và có vai trò quyết định chi phối guồng
quay của bộ máy giáo dục (GD). Tác động
vào mắt xích đó sẽ làm rung chuyển
toàn bộ hệ thống, tạo ra sự biến đổi lớn, phát triển
nhanh và hiệu quả cao.
Từ
cách nhìn trên, chúng tôi
cho rằng: đánh giá kết quả học tập của học sinh
là một trong số ít các mắt xích trọng
yếu ấy. Điều này cũng có nghĩa là muốn đổi mới
GD Việt Nam nói chung và GDPT nói
riêng, không thể không tập trung vào đổi
mới đánh giá. Muốn đổi mới đánh
giá, cần trao đổi để nhận thức thật chính xác
một số phương diện quan trọng và cần yếu của khoa học
đánh giá. Từ đó đối chiếu với thực tiễn
đánh giá trong nhà trường phổ thông
Việt Nam để tìm hiểu nguyên nhân, rút
ra bài học, cũng như đề xuất các giải pháp thiết
thực, hiệu quả và khả thi.
Mặc
dù đã hạn chế phạm vi bàn luận như
trên, nhưng vấn đề vẫn quá lớn; người viết không
hy vọng giải quyết hết tất cả mà chỉ cố gắng làm
sáng tỏ một số vấn đề với tâm niệm
“thà thắp lên một ngọn lửa nhỏ còn
hơn là chỉ ngồi than phiền bóng tối”.
Bài viết này sẽ đề cập đến một số vấn đề sau
đây:
-Thế nào là đánh
giá kết quả học tập của học sinh? Mục đích của
đánh giá kết quả trong giáo dục nhà
trường?
-
Có những loại hình và phương
pháp đánh giá kết quả
nào?
-
Những hạn chế đáng kể của việc đánh
giá kết quả học tập trong nhà trường phổ thông
Việt Nam là gì?
-
Tại sao cần đột phá vào mắt xích
đánh giá và nên khắc phục hạn chế
nào để đổi mới đánh giá kết quả trong bối cảnh
hiện nay?
1. Đánh giá
và mục đích của đánh giá kết quả học
tập
1.1. Thế
nào là đánh giá kết quả học tập của
học sinh?
Có
quá nhiều định nghĩa trong và ngoài nước về
đánh giá kết quả (ĐGKQ) học tập của học sinh (HS); ở
đây chúng tôi chỉ lựa chọn và giới
thuyết một cách hiểu giản dị về đánh giá kết
quả như sau:
Đánh giá
là sự phán xét, xác nhận kết quả hoặc
sự tiến bộ của HS trong hoặc sau một quá trình
giáo dục; chỉ ra trình độ kiến thức, kỹ năng
và sự hiểu biết có được của HS dựa trên những bằng
chứng cụ thể, xác thực.[1]
Xác
nhận kết quả là chỉ ra mức độ đạt được của người học ở một
thời điểm nào đó (như thi cuối kỳ, cuối năm, thi đại học…)
còn xác nhận sự tiến bộ
là chỉ ra sự thay đổi theo chiều hướng tích cực của người
học thông qua việc đối chiếu kết quả của các thời điểm
khác nhau; chẳng hạn so sánh kết quả lúc mới
vào với kết quả khi kết thúc năm học.
Sự xác nhận
trong đánh giá thường được biểu hiện bằng hai dạng: định
lượng và định tính. Định lượng như
cho điểm (ví dụ: 8/10; 15/20; 80/100 hoặc đo bằng một loại đơn vị
nào đấy, như làm được 50 % hoặc trả lời đúng
được 2/3 số câu…). Định
tính là nêu nhận xét,
bình giá chẳng hạn: “đó
là một HS thông minh, nhanh nhẹn, hoạt
bát”; “em H có lòng
nhân ái, khoan dung”.v.v…Vì
thế có tài liệu phân biệt thuật ngữ
evaluation là chỉ đánh
giá theo định tính, còn
assessment chỉ đánh giá theo định lượng.
Đánh
giá kết quả học tập đề cao tính khách quan,
minh bạch nhưng trong thực tế lại rất dễ rơi vào chủ quan,
thiên vị. Người đánh giá bị chi phối bởi nhiều
yếu tố cảm tính, nhất là các nước phương
Đông, trong phán xét thường nặng duy cảm, nhẹ
duy lí, “Yêu nhau yêu dấu
chân đi - Ghét nhau ghét cả tông ti họ
hàng”. Chính vì thế muốn
đánh giá đúng; muốn xác nhận kết quả
chính xác (dù là định
tính hay định lượng) thì đều phải dựa vào những
bằng chứng cụ thể (bài làm, câu trả lời,
hành động, sản phẩm…). Những bằng chứng này phải
bảo đảm hai tiêu chí cơ bản: độ giá
trị và độ tin cậy.
Độ
giá trị dùng chỉ những thông tin/bằng
chứng thu thập được có liên quan mật thiết tới
các phán quyết chính xác của người
đánh giá. Trong thực tế, không phải tất cả
các thông tin/bằng chứng đều có giá
trị ngang nhau; do đó muốn đánh giá
chính xác cần thu thập được các
thông tin/bằng chứng có giá trị. Để
đánh giá chính xác tư duy
sáng tạo của một HS trong học toán
có thể dựa vào nhiều thông tin/bằng chứng.
Nhưng dựa vào lời đồn đại của bạn bè là
thông tin không có giá trị bằng
thông tin trực tiếp từ bài kiểm tra của HS này.
Trong bài làm đó kết quả cuối cùng
không có giá trị bằng cách em ấy giải
như thế nào…
Độ tin cậy
chỉ sự ổn định và nhất quán của các
thông tin/ bằng chứng. Peter W.Airasian (1996)[2]
đưa ra một so sánh rất dễ hiểu về độ tin cậy như sau: Nếu bạn thử
xem mình nặng bao nhiêu thì hãy bước
lên một cái cân. Sau đó bước xuống
và thử lại trên cùng cái
cân đó. Điều bạn trông đợi chắn chắn
là trọng lượng của hai lần cân phải giống nhau. Nếu kết quả
hai lần khác nhau thì thông tin từ
cái cân đó không đáng tin
cậy.
Một số người ngộ nhận,
thường đánh đồng thi, kiểm tra và
đánh giá là một. Thực ra
đánh giá là khái niệm rộng,
còn thi và kiểm tra chỉ là hai dạng thức cơ bản,
quen thuộc của đánh giá mà thôi.
Kiểm tra là dạng thức đánh giá
thường xuyên, nhẹ nhàng (miệng, 15 phút, 1 tiết…)
diễn ra trong suốt quá trình học tập, phục vụ cho học tập,
vì sự tiến bộ của người học (Assessment for Leaning). Dạng thức
này phù hợp với đánh giá
quá trình (formative assessment).
Còn thi thường là dạng thức
dùng để xác nhận kết quả (Assessment of Leaning) khi kết
thúc một giai đoạn, một chương trình học tập, như thi cuối
kỳ, cuối năm, thi tốt nghiệp…Người ta gọi đó
là đánh giá tổng kết
(Summative Assessment).
1.2. Mục
đích của đánh giá kết quả học tập
Đánh
giá kết quả học tập có ý nghĩa rất quan trọng
trong quá trình giáo dục và
đào tạo. “Bất kỳ một quá trình
giáo dục nào mà một con người tham gia cũng nhằm
tạo ra những biến đổi nhất định trong con người đó. Muốn biết những
biến đổi đó xảy ra ở mức độ nào phải đánh
giá hành vi của người đó trong một
tình huống nhất định. Việc đánh giá cho
phép chúng ta xác định, một là mục
tiêu giáo dục được đặt ra có phù hợp
hay không và có đạt được hay không,
hai là việc giảng dạy có thành công
hay không, học viên có tiến bộ hay
không.”[3]
Như thế, việc kiểm tra
đánh giá không chỉ nhằm mục đích
xác nhận kết quả học tập của người học mà còn
là nguồn thông tin phản hồi giúp người dạy nắm
bắt được chất lượng, phương pháp dạy để từ đó
có những điều chỉnh thích hợp trong công việc
giảng dạy của mình. Không những thế đánh
giá kết quả học tập còn giúp
các cơ quan GD, các nhà quản lý
và hoạch định chính sách có được những
số liệu, thông tin về chất lượng và trình độ của
hệ thống GD các cấp để có những điều chỉnh, bổ sung
và chỉ đạo kịp thời.
Về mục đích
đánh giá kết quả học tập của học sinh, dù
các tài liệu trình bày,
phát biểu và giới thuyết có khác
nhau, nhưng nhìn chung đều thống nhất ở một số điểm sau
đây :
- Xác nhận kết
quả học tập hoặc sự tiến bộ của HS (cá
nhân)
- Xác nhận mức
độ đạt được của mục tiêu GD (tập thể)
- Xếp loại
trình độ HS và xếp hạng một tập thể nhà trường
- Cung cấp
thông tin phản hồi để điều chỉnh việc dạy học (nội dung, phương
pháp…) và các chính sách
GD cho phù hợp, kịp thời.
Ngoài ra mỗi một
loại hình đánh giá có những mục
đích riêng. Chẳng hạn mục đích
chính của Đánh giá quốc
gia là cung cấp những phản hồi cho những nhà
hoạch định chính sách; trong khi mục đích
chính của các kỳ đánh giá tổng kết
(các kỳ thi công như tốt nghiệp, đại học) là nhằm
cấp chứng chỉ và tuyển lựa HS.
2. Loại
hình và phương pháp đánh
giá kết quả học tập của học sinh
2.1. Có những loại
hình đánh giá nào
?
Để phân loại,
người ta thường phải xác định tiêu chí nhằm đảm
bảo tính nhất quán. Theo cách đó, từ
các tiêu chí khác nhau sẽ
có kết quả phân loại khác nhau. Trong
đánh giá lâu nay thường phân loại
theo các tiêu chí sau:
(1) Xét theo
quy mô đánh giá sẽ
phân ra hai loại: Đánh giá trên diện
rộng (Large-Scale Assessment) và Đánh giá
trong phạm vi hẹp, chủ yếu là dạng Đánh giá
trong lớp học (Classroom Assessment).
Đánh
giá trên diện rộng là loại hình
đánh giá thường triển khai trên một số lượng lớn
học sinh (mẫu đủ lớn) nhằm cung cấp các thông tin về kết
quả học tập ở một số lĩnh vực để các nhà quản
lý có cơ sở ra những quyết định về chính
sách GD. Thiết kế và phân tích kết
quả của kỳ đánh giá này thường do
các chuyên gia GD đảm nhận. Ở Việt Nam từ năm 2000 đến
nay, các kỳ khảo sát chất lượng GD, đánh
giá quốc gia kết quả học tập của HS… chính
là loại hình đánh giá
này.
Đánh
giá trong phạm vi hẹp (đánh giá
trên lớp học) là loại hình đánh
giá thường xuyên, diễn ra trong quá
trình học tập, với phạm vi của một lớp học do giáo
viên tiến hành bằng nhiều cách thức đa dạng
khác nhau; “thường là việc ra những quyết định
về dạy học, bất chợt xuất hiện trong giờ học, nhằm trợ giúp việc học
tập của HS. Như thế, đánh giá ở đây là
đánh giá chủ quan, không cần nghi thức
(informal), đánh giá trực tiếp dựa trên cơ sở
thực hiện của HS trong những tình huống thực tiễn, ở đó
HS chứng minh được sự thành thạo của mình.”[4]
Loại hình đánh giá này nhằm cung cấp
thông tin và giúp nâng cao chất lượng
dạy học, thúc đẩy sự tiến bộ của mỗi HS.
(2) Xét theo
quá trình học tập sẽ có 3
loại đánh giá tương ứng với đầu vào,
quá trình học tập và đầu ra (kết
thúc quá trình dạy học).
Đánh giá đầu
vào (Diagnostic Assessment, còn gọi
là Đánh giá chẩn đoán/
Đánh giá thăm dò): thường được thực hiện khi bắt
đầu một giai đoạn giáo dục/học tập, nhằm cung cấp hiện trạng ban đầu
về chất lượng HS, giúp GV nắm được tình hình để
có phương hướng, kế hoạch giáo dục phù hợp.
Đánh
giá quá trình (Formative
Assessment, còn gọi là Đánh giá
hình thành): được thực hiện thường xuyên trong
suốt quá trình học tập/giáo dục. Mục
tiêu, nội dung, cách thức… đều giống với dạng
đánh giá trong lớp học vừa
nêu.
Đánh
giá kết thúc (Summative Assessment,
còn gọi là Đánh giá tổng kết): thường
được tiến hành sau một giai đoạn giáo dục/ học tập nhằm
xác nhận kết quả ở thời điểm cuối của giai đoạn
đó.
(3) Xét theo
mục tiêu dạy học sẽ có 2 loại
là Đánh giá để cải tiến việc học tập
(Assessment for Learning) và Đánh giá kết quả
học tập (Assessment of Learning).
Loại thứ nhất diễn ra
trong suốt quá trình học tập, kết quả ĐG không
nhằm mục đích công nhận chứng chỉ, bằng cấp mà
nhằm có thông tin phản hồi về chất lượng học tập của HS, từ
đó cải thiện cách dạy và học, giúp
HS tiến bộ.
Loại thứ hai thường thực
hiện vào cuối mỗi giai đoạn học tập, nhằm mục đích xếp loại
và công nhận chứng chỉ, bằng cấp, tuyển dụng…
Theo cách hiểu
nêu trên, có thể thấy dù xuất
phát từ tiêu chí phân loại
và tên gọi khác nhau, nhưng các loại
hình đánh giá có quan hệ mật thiết.
Đánh giá lớp học, đánh
giá trong quá trình
và đánh giá để cải tiến
việc học tập là khá giống nhau. Tương tự,
đánh giá ban đầu, đánh
giá kết thúc, đánh giá ở
các kỳ thi công và
đánh giá kết quả học tập là
cùng loại.
2.2.
Có những phương pháp đánh giá
nào ?
Tất cả các loại
hình đánh giá nêu trên đều
sử dụng một số phương pháp khá quen thuộc sau
đây:
- Vấn
đáp: hỏi và trả lời, thông qua đối
thoại mà đánh giá trình độ
-
Quan sát: thông qua các
hành vi, cử chỉ, thái độ và các biểu
hiện cụ thể của HS trong quá trình học tập mà
nhận xét, thường là đánh giá định
tính.
- Kiểm tra
(thi) viết: Đây là phương pháp
đánh giá phổ biến nhất, bao gồm hai dạng thức lớn:
Trắc nghiệm
khách quan và Tự luận
-
Đánh giá sản phẩm của học
sinh: thông qua hồ sơ (portfolios) tích lũy của HS như: kết
quả sưu tầm, bài làm ở nhà, bài
báo, bài tập nghiên cứu…
- Tự
đánh giá: HS tự nhận xét
và xác định trình độ… của
chính mình.
- Lấy
ý kiến chuyên gia:
thông qua người có trình độ cao, am hiểu về
lĩnh vực chuyên môn mà xác nhận
trình độ của người học.
Với các chương
trình GD theo định hướng hình thành
và phát triển năng lực người học, để đánh
giá chính xác cần có những phương
pháp bổ sung, đó là phương pháp
thông qua thực hành, thực hiện, trình diễn
(Performance Assessment) như yêu cầu sử dụng vi tính, chơi
các loại nhạc cụ, sửa chữa máy móc, sử dụng
ngoại ngữ, thuyết trình về một cuốn
sách…
Trong việc
đánh giá để có những xác nhận,
phán quyết chính xác, người ta thường kết hợp
nhiều phương pháp và nhiều hình thức
khác nhau.
3. Những hạn chế đáng kể trong
đánh giá kết quả học tập ở nhà trường phổ
thông Việt Nam.
Đã
có khá nhiều tài liệu tổng kết và
nêu lên những tồn tại về ĐGKQ ở nhà trường phổ
thông trong thời gian qua. Đây là một nhận định
khá tiêu biểu: “Hoạt động kiểm tra
đánh giá chưa bảo đảm yêu cầu
khách quan, chính xác,
công bằng; việc kiểm tra đánh giá chủ yếu
chú ý đến yêu cầu tái hiện kiến thức
đã dẫn đến tình trạng giáo viên
và học sinh duy trì dạy học theo lối "đọc-chép"
thuần túy, học sinh học tập thiên về ghi nhớ,
ít quan tâm vận dụng kiến thức. Nhiều giáo
viên chưa vận dụng đúng quy trình
biên soạn đề kiểm tra nên các bài kiểm
tra còn mang tính chủ quan của người dạy. Hoạt động kiểm
tra đánh giá ngay trong quá trình tổ
chức hoạt động dạy học trên lớp chưa được quan tâm thực hiện
một cách khoa học và hiệu quả. Các hoạt động
đánh giá định kỳ, đánh giá diện rộng
quốc gia, đánh giá quốc tế chưa được tổ chức theo hướng đồng
bộ, hiệu quả. Tình trạng học sinh quay cóp tài
liệu, đặc biệt là chép bài của nhau trong khi
thi cử, kiểm tra còn diễn ra phổ biến. Cá biệt vẫn
còn tình trạng giáo viên
làm bài hộ học sinh trong thi cử, kiểm tra, kể cả trong
các kỳ đánh giá diện rộng (đánh
giá quốc gia, đánh giá quốc tế).”[5]
Thiết nghĩ nhận định
trên đã nêu khá đầy đủ về
các hạn chế của công tác đánh
giá. Tuy nhiên từ những cơ sở lí luận về
đánh giá trong phần đầu bài viết,
có thể soi chiếu và khái quát lại một
số hạn chế đáng kể trong việc ĐGKQ ở nhà trường phổ
thông Việt Nam như sau:
Một
là: Nhận thức về ĐGKQ học tập trên cả hai
phương diện lí luận và thực tiễn của GDPT Việt Nam chưa đầy
đủ, còn nhiều thiên lệch cần điều chỉnh, cập nhật,
nâng cao, chẳng hạn:
- Coi đánh giá KQHT của
HS chỉ là cho điểm, xếp loại và cho lên lớp.
Giáo viên chỉ chú trọng hoàn
thành các đầu điểm kiểm tra theo văn bản của cấp
trên, không coi trọng đánh giá để cải
thiện kết quả học tập; chỉ chú ý đánh
giá kết quả cuối cùng, ít chú
ý sử dụng kết quả đánh giá thường
xuyên, đánh giá trong suốt quá
trình vào cải thiện chất lượng dạy học.
- Do quan niệm thi gì học nấy
nên giáo viên chỉ tập trung vào dạy
và đánh giá những gì
giúp học sinh đối phó với các kỳ kiểm tra, thi
cử. Không hình thành và
rèn luyện phương pháp học tập và tư duy, coi
nhẹ ứng dụng nên kết quả dẫn đến tình trạng học tủ, học lệch,
học vẹt...
Hai
là: ĐGKQ học tập của nhà trường Việt Nam chưa
bảo đảm tính khách quan, khoa học. Từ lí luận
đến thực tiễn đều cho thấy ĐGKQ học tập của HS chưa được xây dựng
hành một khoa học và tính chuyên
nghiệp còn rất thấp. Đây là một số biểu hiện:
+ Đánh
giá còn bị chi phối nhiều yếu tố chủ quan, cảm
tính kể cả định tính lẫn định lượng, nhất là đối
với các môn khoa học xã hội.
+ Các
hình thức và phương pháp ĐG còn đơn
điệu, chủ yếu là đánh giá tổng kết; trong ĐG tổng
kết chủ yếu là hình thức viết; coi nhẹ nói,
ít chú ý ĐG thực hành.
Và ngay cả đánh giá viết thì đề
bài cũng chủ yếu yêu cầu tái tạo, sử dụng
trí nhớ nhiều hơn là vận dụng và
đòi hỏi sáng tạo....
+ Công cụ
đánh giá, phương pháp và kỹ thuật xử
lý kết quả còn lạc hậu. Nguồn lực phục vụ cho kiểm tra
đánh giá vừa thiếu, vừa chưa đồng bộ, làm hạn
chế việc áp dụng các hình thức kiểm tra
đánh giá hiện đại.
Những hạn chế trên
đây là một lực cản đáng kể cho việc thực hiện đổi
mới mục tiêu, chương trình và phương
pháp dạy học trong nhà trường PT.
4. Tại sao cần đột
phá vào mắt xích đánh
giá và nên khắc phục hạn chế nào để
đổi mới đánh giá kết quả trong bối cảnh hiện
nay?
Đánh
giá kết quả là khâu cuối cùng của
quá trình dạy và học nhưng là
khâu hết sức quan trọng nếu không muốn nói
là quan trọng nhất trong quá trình ấy. Ở Việt
Nam và các nước có nền GD nặng về khoa cử, bằng
cấp thì vấn đề ĐGKQ càng cần tập trung xem
xét, nghiên cứu.
Thực tế GD các
nước cho thấy, nhìn vào nội dung, quy trình
và công cụ đánh giá KQHT của một quốc
gia, có thể hiểu và hình dung được chất lượng
GD của nước đó. Coi trọng nghiên cứu, đổi mới
và đầu tư vào ĐG là một trong những giải
pháp chủ chốt tạo nên thương hiệu của một cơ sở GD, một nền
GD.
Hiện trạng ĐG trong
nhà trường PT Việt Nam vừa nêu dẫn đến những hệ quả rất xấu:
GD chạy theo thành tích, không rèn
luyện được tính trung thực; nhiều HS phổ thông
còn thụ động trong việc học tập; khả năng sáng tạo
và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết
các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế;
chưa đáp ứng đầy đủ mục tiêu đặt ra của Luật
Giáo dục là "Giúp học sinh
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể
chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và
sáng tạo…".
Có thể
nói nếu không đổi mới đánh giá
thì mọi cố gắng thay đổi mục tiêu, nội dung và
phương pháp dạy học đều không có hiệu quả.
Đây chính là lý do tại sao coi ĐG
là một mắt xích trọng yếu. Thay đổi ĐG sẽ có
tác động hết sức lớn vào việc dạy và học trong
nhà trường phổ thông. Tuy nhiên với thực tiễn Việt
Nam, khó có thể thay đổi toàn bộ tất cả mọi
phương diện của vấn đề ĐG, vì thế cần biết đột phá
vào một vài khâu trọng yếu. Theo
chúng tôi trước mắt cần chú trọng khắc phục hai
khâu sau đây:
Một
là: Khắc phục và hạn chế vai trò của
cảm tính trong ĐG. Hiện nay đánh giá
quá trình và
đánh giá trên lớp học chưa được coi
trọng, cần phải điều chỉnh. Nhưng các hình thức ĐG
này rất dễ bị chi phối cảm tính vì
hoàn toàn phụ thuộc vào cá
nhân người GV. Trước thực trạng đời sống khó khăn của GV,
các tiêu cực xã hội (tiền nong, quà
cáp…) dễ chi phối tình cảm yêu ghét,
khinh trọng trong đánh giá, nhận
xét… Đây là một thực tế cay đắng,
không thể không nhìn thấy. Giải pháp ở
đây chỉ có thể là một mặt nâng cao đời
sống cho GV (lương đủ sống), mặt khác đề cao, giáo dục
lòng tự trọng trong đạo đức làm thầy cùng với
các biện pháp quản lý nhẹ nhàng
mà hữu hiệu.
Hai
là: Đổi mới việc ra đề thi, phương pháp xử
lý kết quả và sử dụng kết quả. Đây
là biện pháp nằm trong tay các cơ quan chuyên
môn, quản lý và chỉ đạo dạy học; có
nghĩa là hoàn toàn có thể chủ động
làm được, đầy tính khả thi. Cần làm
rõ cho GV, HS, phụ huynh và xã hội biết: ĐGKQ
không chỉ tập trung vào kiểm tra xem HS học cái
gì (nội dung) mà quan trọng hơn là kiểm tra HS
đó học như thế nào, có biết vận dụng
không (phương pháp học, cách học, năng lực). Định
hướng này buộc đề thi không thể chỉ kiểm tra
trí nhớ (kiến thức) mà phải yêu cầu vận dụng,
thực hành, kiếm tra năng lực sáng tạo…
Đi đôi với việc
đổi mới cách ra đề thi - kiểm tra, cần có biện
pháp ngăn chặn sự can thiệp thô bạo của các
cá nhân hoặc cơ quan hành chính, địa
phương vào công tác ĐG và điều chỉnh
kết quả ĐG học tập, thi cử của nhà trường.
Theo chúng
tôi, trước mắt hãy cứ làm tốt hai
khâu vừa nêu trên. Đề ra nhiều mà thiếu
tính khả thi, không thực hiện được hoặc thực hiện
không tốt thì sẽ rơi vào tình trạng
chỉ biết nói suông, dẫn tới mất nhiều hơn được.
* *
*
Trong lịch sử
phát triển giáo dục Việt Nam, chương trình GD
phổ thông hiện hành (triển khai đại trà từ
2002) là một chương trình có nhiều điểm tiến bộ
rõ rệt so với các chương trình trước
đó. Về lý thuyết, hầu như tất cả các
thành tố của một chương trình GD đều đã được
chú ý, từ mục tiêu, nội dung, phương
pháp đến kiểm tra, đánh giá…Tuy
nhiên sau hơn 10 năm triển khai, cho đến nay thực trạng GD vẫn đang đặt
ra nhiều vấn đề cấp bách cần khắc phục, cần “đổi mới căn bản,
toàn diện”. Dường như nhiều tuyên ngôn
rất đúng và hay về mục tiêu, định hướng đổi mới
CT và SGK phổ thông sau nghị quyết 40 Quốc Hội
khóa X (2000) vẫn chưa thực hiện được; nhiều tư tưởng rất tiến bộ nhằm
đổi mới phương pháp dạy học chưa được vận dụng trong dạy và
học hàng ngày…
Một trong những
nguyên nhân chính của tình trạng vừa
nêu là do chúng ta chưa thực sự mạnh dạn đổi mới
đánh giá, kiểm tra, thi cử. Nói
đúng hơn những định hướng tốt đẹp về đổi mới đánh
giá vừa qua vẫn chỉ mới là lý thuyết. Mặc
dù mấy năm qua, trong thực tiễn việc đổi mới đánh
giá đã bắt đầu có những thay đổi theo chiều hướng
tích cực, nhưng về cơ bản vẫn nằm trong hệ hình cũ. So với
các thành tố mục tiêu, nội dung và
phương pháp, phương tiện dạy học; thì kiểm tra,
đánh giá là phương diện ít đổi mới
và còn nhiều bất cập hơn cả. Không những thế
nó còn là vật cản của việc đổi mới phương
pháp, nội dung và làm lệch mục tiêu
đề ra ban đầu.
Thế chẳng phải
đánh giá là một mắt xích
trọng yếu cần chú ý trong việc đổi mới chương
trình và sách giáo khảo sau
2015?
Tài liệu tham khảo
1) Bộ GD&DT (2006) - Chương
trình GDPT Việt Nam
2) Bộ GD&ĐT (2012) - Đề
án Xây dựng mô
hình trường phổ thông đổi mới đồng bộ
phương pháp dạy học
và kiểm tra đánh
giá kết quả giáo dục giai đoạn 2012
– 2015.
3) Bộ GD&ĐT (2012)-
Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam từ
2011- 2020
4) Dương Thiệu Tống (1995),
Trắc nghiệm và đo lường thành quả học
tập, tập 1, Trường ĐHTH thành phố Hồ Chí Minh
xuất bản.
5) Đỗ Ngọc Thống (2011) -
Đánh giá quốc gia kết quả học tập của học sinh
- Tạp chí KHGD, số 70
6) Elaine Furniss (2005)-
Assessing Learning Achievement - UNICEF New York
7) Greaney and T. Kellaghan (2008) -
Assessing National Achievement Levels in Education - World
Bank
8) Harlen, W.ed. (2008).
Student Assessment and Testing. Vols. 1–4. London:
Sage IEA (International Association for the Evaluation of Educational
Achievement).
9) Linn, R. L., and M. D. Miller
(2004). Measurement and Assessment in Teaching:
Student Exercise Manual. Upper Saddle River, NJ: Prentice
Hall.
10) Rebecca Cartwright, Ken Weiner (2007) - Student Learning
Outcomes Assessment Handbook.
11) Thomas A. Angelo -
K.Patricia Cross (1993) - Classroom Assessment Technique
– Jossey- Bass Publichers , San
Francisco
12) Peter W.
Airasian ( 1996)- Classroom assessment: a Concise Approach
– Mc.Graw-Hill edition
Hà Nội, 5/10/2012
Đ.N.T
[1]
Tham khảo: Assessment is a judgement of student achievement or progress in a
program of study and indicates the level of knowledge, skills and understanding
achieved by the student. ( Assessment in Australian
schools - ACARA)
[2]
Classroom assessment: a concise approach –
Mc.Graw-hill edition
[3]
Lâm Quang Thiệp – Đo lường và
đánh giá kết quả học tập trong nhà trường
- http://edtech.com.vn
[4]
Elaine Furniss, UNICEF New York - Assessing Learning
Achievement
[5] Bộ
GD&ĐT (2012) - Đề án
“Xây dựng
mô hình trường phổ thông đổi
mới đồng bộ phương pháp dạy học
và kiểm tra đánh
giá kết quả giáo dục giai đoạn 2012
– 2015”