Tiếp cận hiểu một cách thông thường là
tiến
gần
đến
một
ai, một
vật
gì đó. Trong lý luận về phát triển chương trình (development curriculum)
thuật
ngữ
tiếp
cận
(to approach) chỉ cách thức vận dụng một số phương pháp để tìm hiểu, thiết kế một chương trình giáo dục (CTGD).
Từ
góc độ
này, có thể thấy ý nghĩa của thuật ngữ tiếp
cận nghiêng nhiều về quan điểm thiết kế CT, là phương pháp
luận
của
việc
xây dựng
CT chứ
không phải là một phương pháp cụ thể nào đó. Cách tiếp cận sẽ định hướng cho
toàn bộ
các thành tố của CTGD: từ đề xuất mục tiêu, chuẩn CT đến xác định các
lĩnh vực/
môn học,
các hoạt
động;
từ
việc
lựa
chọn
nội
dung, phương pháp dạy học, cách tổ chức đến kiểm tra đánh giá kết quả... Có
nhiều
cách tiếp cận CT, bài viết này tập trung vào một vài
cách tiếp cận cơ bản được nhiều nước vận dụng trong các lần phát
triển
CT gần
đây nhất,
đặc
biệt
là hướng
tiếp cận
năng lực.
1.
Tiếp cận
nội dung và tiếp cận
kết quả
đầu ra
Từ những năm
90 của
thế
kỷ
trước,
khi so sánh quốc tế[2] về thiết kế CTGD, người ta thường nêu lên hai cách tiếp cận chính:
Thứ nhất là tiếp cận dựa vào nội dung
hoặc
chủ
đề
(content or topic based approach) và thứ hai là tiếp cận dựa vào kết quả đầu ra (outcome-based
approach or outcome-focused curriculum). Để ngắn gọn xin gọi cách 1 là tiếp
cận nội
dung và cách 2
là tiếp cận
kết quả
đầu ra.
Tiếp cận
nội dung là cách nêu ra một danh mục đề tài, chủ đề của một lĩnh vực/ môn học nào
đó. Tức
là tập
trung xác định và trả lời câu hỏi: Chúng ta muốn HS cần
biết cái gì ?(what we want students to know?).
Cách tiếp cận này chủ yếu dựa vào yêu cầu nội dung học vấn của một khoa học bộ môn nên
thường
mang tính “hàn lâm”, nặng về lý thuyết và tính hệ thống, nhất là khi
người
thiết
kế
ít chú đếntiềm năng, các giai đoạn phát triển, nhu cầu, hứng thú và điều kiện của người học.
Tiếp cận
kết quả
đầu ra như NIER[3] (1999)
đã xác định “là cách tiếp cận nêu rõ kết quả- những khả năng hoặc kỹ năng
(abilities or skills) mà HS mong muốn đạt được vào cuối mỗi giai đoạn học tập trong nhà trường ở một môn học cụ thể”[4]. Nói
cách khác, cách tiếp cận này nhằm trả lời câu hỏi: chúng ta muốn HS biết
và có thể làm được
những gì? (what we want students to know
and to be able to do?)
Từ hai
cách tiếp cận chính nêu trên, cũng theo NIER, xu hướng
chung trong việc thiết kế CTGD của các nước là kết hợp cả hai. Ví dụ Trung
Quốc,
Pháp, Đức, Nhật Bản, Hàn Quốc, Lào, Maliaxia, Philippine và
Hoa Kỳ khi thiết kế CT đều sử dụng kết hợp hai cách tiếp cận này một cách
đa dạng.
Các nước
Úc, Niu- Zi-lân, và Thái Lan chủ yếu sử dụng cách tiếp cận đầu ra,
trong khi đó Cộng hòa Phi-zi, In-đô-nê-sia và Việt Nam chủ yếu lại sử dụng cách
tiếp
cận
nội
dung. Ấn
Độ,
Sri-lan-ca đang chuyển từ cách tiếp cận nội dung sang cách tiếp cận đầu ra. Như thế có thêm
cách tiếp cận thứ 3 là cách kết hợp giữa 1và 2.
Tham khảo bảng thống kê sau đây[5]:
TT
|
Quốc gia
|
Cách tiếp cận
|
Ghi chú
|
-
|
Úc
|
2
|
2: Tiếp cận đầu ra
|
-
|
Trung Quốc
|
1
|
1: Tiếp cận nội dung
|
-
|
Phi-zi
|
1
|
|
-
|
Pháp
|
1->3, 1->2
|
-> chuyển sang
|
-
|
Đức ( Bavaria)
|
3
|
|
-
|
Ấn Độ
|
1-> 2
|
|
-
|
In-đô-ne-sia
|
1
|
|
-
|
Nhật
|
1
|
|
-
|
Lào
|
3
|
3: Kết hợp 1và 2
|
-
|
Ma-lai-xia
|
3
|
|
-
|
Niu-zi-lân
|
2
|
|
-
|
Phi-lip-pin
|
3
|
|
-
|
Hàn Quốc
|
3, 1-2
|
Sử dụng cả ba cách
|
-
|
Sri-lan-ka
|
1->2
|
|
-
|
Thái-Lan
|
2
|
|
-
|
Hoa Kỳ
|
3
|
|
-
|
U-zơ-bê-kit-stăng
|
2-> 3
|
|
-
|
Việt Nam
|
1-> 3
|
|
2. Phát triển chương trình theo hướng tiếp cận năng lực
Những gì
trình bày ở mục 1 chỉ là vài nét khái quát về cách tiếp cận CT của một số nước cuối thế kỷ XX. Bước sang thế kỉ XXI, tốc độ phát
triển của xã hội hết sức nhanh chóng, với những biến đổi liên
tục và khôn lường. Để chuẩn bị cho
thế hệ trẻ đối mặt và đứng vững trước những thách thức của đời sống,
vai trò của GD ngày càng được các quốc gia
chú trọng và quan tâm đầu tư hơn bao
giờ hết. Thay đổi, sửa sang, cải tiến CT, thậm chí
cải cách GD đã được nhiều nước tiến hành[6]. Theo tổng kết của INCA[7] có 4 nhân
tố chính dẫn đến việc cần xem
xét, cải tổ CTGD của một quốc gia: a)
do thay đổi thể chế chính trị; b) do CT nặng nề, quá
tải (overload); c) muốn cải tiến để hệ thống GD trở nên
công bằng và vượt trội hơn và d) muốn hiện đại hóa
CTGD mà trọng tâm là hướng vào chuẩn bị các kỹ năng nhằm đáp ứng những đòi
hỏi của cuộc sống và lao động trong thế kỷ XXI.[8]
Có khá nhiều vấn đề đặt ra
khi xem xét chỉnh sửa, đổi mới CTGD.
Trước hết là việc xem xét, thiết kế lại cần theo
cách tiếp cận nào? Bản chất của cách
tiếp cận ấy là gì? Tại sao lại theo hướng tiếp cận này?
Khảo sát và nghiên cứu việc phát
triển CTGD của một số nước gần đây,
chúng tôi thấy xu thế thiết kế CT theo hướng tiếp cận năng
lực được khá nhiều quốc gia quan tâm, vận dụng.
Tên gọi của cách tiếp cận này có khác nhau nhưng thuật ngữ được dùng
khá phổ biến là Competency-based Curriculum
( Chương trình dựa trên cơ sở năng lực - gọi tắt là tiếp cận năng lực).
2.1) Bản chất và lý do chuyển sang cách tiếp cận năng lực
Theo cách mô tả và lý giải của một số nước thì CT
tiếp cận năng lực thực chất vẫn là
cách tiếp cận kết quả đầu ra vừa nêu ở phần 1. Tuy
nhiên cần lưu ý, có rất nhiều dạng “kết quả đầu ra”;
đầu ra của cách tiếp cận này tập
trung vào hệ thống năng lực cần có ở mỗi người học. CT
tiếp cận theo hướng này chủ trương
giúp HS không chỉ biết học thuộc, ghi
nhớ mà còn phải biết làm thông qua các hoạt động cụ thể, sử dụng những tri
thức học được để giải quyết các tình huống do cuộc sống đặt ra.
Nói cách khác phải gắn với thực tiễn đời sống. CT
truyền thống chủ yếu yêu cầu HS trả lời câu hỏi: Biết cái gì? CT tiếp cận theo
năng lực luôn đặt ra câu hỏi: Biết làm gì từ những điều đã biết? Trong lời nói đầu CT
Niu Zi-lân có đoạn: “Chương trình hướng vào
kết quả đầu ra là CT nhằm xác định những gì chúng ta muốn HS biết và có thể làm được. Nó nêu rõ 05 năng
lực chính nhằm giúp HS củng cố kiến thức, tham gia xã hội có hiệu quả và nhấn mạnh việc học suốt đời. Dân số của chúng ta ngày
càng trở nên đa dạng, khoa học công nghệ ngày càng tinh vi, đòi hỏi của thị trường lao động ngày càng phức tạp. Hệ thống GD của chúng ta cần phải đáp ứng được những đòi hỏi này và những thách thức khác của thế kỷ XXI. Đó chính là lí do của việc xem xét lại CT được tiến hành vào các năm
2000-2002”[9]
Cũng giống như Niu
Zi-lân, nhiều nước tuyên bố chuyển đổi thiết kế CT
sang hướng tiếp cận năng lực cũng với lý do tương tự. CT
Québec của Ca-na-đa viết: “Sự thành công của GD được thể hiện ở chỗ giúp cho HS sử dụng được các tri thức mà chúng giành được vào việc hiểu thế giới quanh mình và hướng dẫn các hoạt động của chúng. Điều đó lí giải vì sao CT Québec lại được thiết kế dựa trên cơ sở năng lực.”[10]
Những năm
đầu thế kỉ XXI, các nước trong khối EU đã bàn luận rất sôi
nổi về khái niệm Năng lực chính (key competence) và tuyên bố: “đểchuẩn bị
cho thế hệ trẻ
thành công khi đối mặt với
những thách thức của
xã hội thông tin và
nhận được tối
đa lợi ích từ những
cơ hội mà xã hội
đó tạo ra đã trở thành mục tiêu quan trọng của hệ thống GD châu Âu. Nó định hướng cho sự thay đổi chính
sách GD, xem xét lại nội dung CT và phương pháp dạy- học. Điều đó chắc chắn càng làm
gia tăng sự chú ý tới các năng lực cơ bản, cụ thể là những năng lực hướng vào cuộc sống với mục đích suốt đời tham gia xã hội một cách tích cực.”[11]
Nhìn chung sau năm 2000 các nước có sự xem
xét, cải tổ CTGD đều theo định hướng vừa nêu.
Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng tuyên bố rõ đó
là CT tiếp cận theo năng lực. Nhìn vào CTGD các nước vừa thay
đổi, có thể thấy ba loại :
a) Một số số nước tuyên
bố CT thiết kế theo năng lực và nêu rõ các năng lực cần có ở HS.
Chẳng hạn như: Úc, Ca-na-đa, Niu Zi-lân, Pháp...
b) Một số nước cũng
tuyên bố CT thiết kế theo năng lực nhưng không nêu hệ thống
năng lực, mà chỉ nêu chuẩn cụ thể cho
CT theo hướng này; tiêu biểu là CT của
In-đô-nê-sia (2006),
c) Một số nước khác
không tuyên bố CT thiết kế theo
năng lực nhưng thực chất CT vẫn được thiết kế dựa trên cơ sở năng lực. Ví
dụ CT của Hàn Quốc, Phần Lan[12], ...
2.2) Khái niệm năng lực và phân loại hệ thống năng lực
Thực tế trong
tiếng Việt cũng như tiếng Anh[13], từ năng lực được sử dụng với nhiều
nghĩa cụ thể gắn với các lĩnh vực khác nhau, trong những tình
huống và ngữ cảnh riêng biệt. Hơn nữa năng
lực lại rất gần nghĩa với một số từ khác
như tiềm năng, khả năng, kĩ năng... do vậy nếu chỉ nói
chung chung thì sẽ rất phức tạp và
khó xác định. Tuy nhiên từ năng
lực có nghĩa gốc mà Từ điển tiếng Việt[14] đã nêu lên là:a)Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó.b) Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao[15].Có thể dẫn ra một số cách
hiểu về khái niệm năng lực trong CT để tiện so
sánh và nhận xét, chẳng hạn:
“ Năng
lực có thể định
nghĩa như là một khả
năng hành động hiệu quả
bằng sự cố
gắng dựa trên nhiều
nguồn lực. Những
khả năng này được sử
dụng một cách phù hợp, bao gồm
tất cả những
gì học được từ
nhà trường cũng như những
kinh nghiệm của HS; những
kĩ năng, thái độ và sự hứng
thú; ngoài ra còn có những
nguồn bên ngoài chẳng hạn
như bạn cùng lớp,
thầy cô giáo, các
chuyên gia hoặc các nguồn thông tin khác”[16].
Hoặc:“Năng lực là một
tiêu chuẩn đòi hỏi ở
một cá nhân khi
thực hiện một
công việc cụ thể.
Nó bao gồm sự vận
dụng tổng hợp
các tri thức, kĩ năng và
hành vi ứng xử trong thực
hành. Nói một cách khái
quát năng lực là một trạng
thái hoặc một phẩm
chất, một khả
năng tương xứng để
có thể thực hiện
một công việc cụ
thể”[17].
CT của Niu Zi-lân nêu một cách ngắn gọn: “Năng lực là một
khả năng hành động hiệu
quả hoặc là sự
phản ứng thích đáng trong các tình huống phức
tạp nào đó.”[18]...
Có rất nhiều chuyên gia trong các lĩnh vực xã hội học, giáo dục học, triết học, tâm lý học và kinh tế học đã cố gắng định nghĩa khái niệm năng lực. Tại Hội nghị
chuyên đề về những
năng lực cơ bản của Hội đồng châu Âu, sau khi
phân tích nhiều định nghĩa về năng lực, F.E. Weinert (OECD,2001b, p.45) kết luận: Xuyên suốt các môn học “ năng lực được
thể hiện như
một hệ thống
khả năng, sự thành thạo
hoặc những kĩ năng thiết yếu,
có thể giúp con người đủ
điều kiện vươn
tới một mục
đích cụ thể”. Cũng tại diễn đàn này, J. Coolahan (UB châu Âu 1996, p 26) cho rằng: năng lực được xem như là “những khả
năng cơ bản dựa
trên cơ sở tri thức,
kinh nghiệm, các giá trị và thiên hướng
của một con người
được phát triển thông qua thực hành GD”[19]…
Có thể thấy dù cách phát biểu (câu chữ) có khác nhau, nhưng các cách hiểu trên đều khẳng định: nói đến năng lực là phải nói đến khả năng thực hiện, là phải biết làm, chứ không chỉ biết và hiểu. Tất nhiên hành động (làm), thực hiện (performance)
ở đây phải gắn với ý thức và thái độ; phải có kiến thức và kĩ năng, chứ không phải làm một cách “máy móc”,“mù quáng”; đúng như, CT của In-đô-nê-sia đã
xác định:“Năng lực (competence) là những kiến thức ( knowledge), kỹ năng (skills) và các giá trị (values) được phản ánh trong thói quen suy nghĩ
và hành động của mỗi cá nhân. Thói quen tư duy và hành động kiên trì, liên tục có thể giúp một người trở nên có năng lực, với ý nghĩa làm một việc gì đó trên cơ sở có kiến thức, kĩ năng và các giá trị cơ bản. ( Puskur, 2002)”[20].
Văn bản Cải cách CTGD ở Indonesia cũng dành hẳn một mục để giới thuyết về Tư tưởng cơ bản của khái niệm năng lực[21], theo đó khái niệm năng lực
trong CTGD được hiểu như sau: a) Năng lực đề cập đến khả năng của HS khi làm một cái gì đó trong những bối cảnh khác nhau; b) Năng lực thể hiện kinh nghiệm học tập, ở đó HS phải là người thành thạo; c) Kết quả học tập theo năng lực thể hiện ở việc giải thích sự vật thông qua phương pháp học tập của HS; d) Những HS có năng lực khi làm một cái gì đó cần xác định rõ khả năng trong một tiêu chuẩn rộng, có thể đạt được kết quả thông qua việc thực hiện và có thể đo đếm được. (Puskur, 2002a).
Phân
loại năng lực là một vấn đề rất phức tạp. Kết quả phụ thuộc vào
quan điểm và tiêu chí phân loại. Nhìn vào CT thiết kế theo
hướng tiếp cận năng lực của các
nước có thể thấy 2 loại chính: Đó là những năng
lực chung (general competence) và năng lực cụ thể, chuyên biệt (specific competence).
Năng
lực chung là năng lực cơ bản, thiết yếu để con
người có thể sống và làm việc bình thường trong xã hội.
Năng lực này được hình thành và phát triển do nhiều môn
học, liên quan đến nhiều môn học. Vì
thế có nước gọi là năng lực xuyên chương trình ( Cross-curricular competencies). Hội đồng
châu Âu gọi là năng lực chính (key competence). Cũng cần lưu ý là
khái niệm năng lực chính được nhiều nước
trong khối EU sử dụng với các thuật ngữ khác nhau như[22]: năng lực nền tảng (soclesdecompétences), năng lực chủ yếu (essentialcompetencies), kĩ năng chính
(keyskills), kỹ năng cốt lõi (coreskills), Năng lực cơ sở(basiccompetencies), khả năng/phẩm chất chính;(keyqualifications);
Kỹ năng chuyển giao được (keytransferable skills ),… Theo quan niệm của EU, mỗi năng lực chung cần: a) Góp phần tạo nên kết quả có giá trị cho xã hội và cộng đồng; b) Giúp cho các cá nhân đáp ứng được những đòi hỏi của một bối cảnh rộng lớn và phức tạp; c) Chúng có
thể không quan trọng với các chuyên gia, nhưng rất quan trọng với tất cả mọi người.[23]
Năng
lực cụ thể, chuyên biệt là năng lực riêng được hình
thành và phát triển do một lĩnh vực/ môn
học nào đó; vì thế CT Québec gọi là năng lực môn học cụ thể ( Subject-specific competencies) để phân biệt với năng
lực xuyên CT- năng lực chung.
Sáng tạo và đọc diễn cảm là ví
dụ để phân biệt hai loại năng lực này.
Sáng tạo là năng lực chung. Nó là sản phẩm của tất cả các môn học/ hoạt động và đòi hỏi vận dụng ở tất cả các môn học/ hoạt động; còn đọc diễn cảm là năng lực riêng, năng lực do môn tiếng Việt và văn học đảm nhận. Trong cuộc sống rất cần năng lực sáng tạo; không sáng tạo thì không thể phát triển, thậm chí khó tồn tại. Nhưng không đọc diễn cảm được thì cũng không có gì ảnh hưởng lớn.
2.3. Xác định hệ thống năng lực chung
Tại sao khi thiết kế CTGD cần chú ý phát triển các năng lực chung? Xin mượn lời giải thích được nêu trong Lời nói đầu văn bản Các
năng lực xuyên chương
trình Québec: “Thế
giới phức
tạp, đa cực
mà chúng ta đang sống đòi hỏi mọi
người phải
nối kết
nhiều thành tố
đa dạng của
tri thức nhằm
thích ứng với
môi trường, sự
phát triển và hành động có hiệu
quả. Bởi
vậy nhà trường
cần hiểu
rõ việc phát triển cho HS các năng lực
phổ thông là cơ sở
vững chắc
cho vốn tri thức
chính yếu. Chương
trình GD Québec gọi các năng lực này là những
năng lực
xuyên chương trình.”[24]
Hai nhà triết học M.
Canto- Sperber và J-P. Dupuy (OECD, 2001 b, p 75ff) thì cho rằng cần chú trọng loại năng lực này vì
đó là “những năng lực
không thể thiếu
cho một cuộc
sống tốt
đẹp. Mặc
dù quan niệm về một cuộc
sống tốt
đẹp có nhiều
dạng khác nhau, nhưng bản
chất nổi
bật của
nó là khả năng thành đạt, tinh thần
trách nhiệm, hành động hữu
ích trong các lĩnh vực gia đình, kinh tế và chính trị”. Theo họ những năng lực này vượt ra ngoài giới hạn của tri thức các
môn học
và được
tạo
thành dưới hình thức “biết làm” (know-how) hơn là
hình thức “biết gì” (know-what).
Để nhận diện năng lực chung Hội đồng châu Âu đưa ra ba
tiêu chí[25]:
Thứ nhất là khả năng hữu ích của năng lực ấy đối với tất cả các thành viên cộng đồng.
Chúng phải liên quan đến tất cả mọi người, bất chấp giới tính, giai cấp, nòi
giống,
văn hóa, ngôn ngữ và hoàn cảnh gia đình. Thứ
hai: nó phải tuân
thủ
( phù hợp) với các giá trị đạo đức, kinh tế văn hóa và các quy ước xã hội. Thứ ba: nhân tố quyết định là bối cảnh, trong đó các năng lực cơ bản sẽ được ứng dụng ( thực hiện)
Để xác định các năng lực chung
cho CTGD một quốc gia, theo chúng tôi cần dựa vào ba
yếu
tố
cơ
bản
sau đây: Thứ
nhất: yêu cầu phát triển của đất nước trong
một
giai đoạn cụ thể, nhất là yêu cầu phát
triển
nguồn
nhân lực
và đào tạo một thế hệ công dân đáp ứng được những thách
thức
của
tương
lai. Thứ hai: thực trạng năng lực của HSPT nói riêng và của người lao động nói
chung của một đất nước. Thứ
ba: xu thế quốc tế về phát
triển
năng lực
cho HS trong nhà trường PT nhằm đáp ứng thị trường lao động.
Mặc dù
cùng xuất phát từ các yếu tố trên, nhưng việc xác định hệ thống năng lực chung cho CTGDPT mỗi nước lại hết sức đa dạng,
phong phú[26].
Thống
kê CT gần đây của 11 nước[27] theo hướng tiếp cận năng lực, chúng
tôi thấy
đã có 35 năng lực khác nhau. Tuy nhiên từ thống kê
này, có thể thấy một số năng lực (NL) chung được khá
nhiều
nước
đề
xuất/lựa chọn. Cụ thể là 8
năng lực
sau đây:
- Tư
duy phê phán, tư duy logic
- Giao
tiếp, làm chủ ngôn ngữ
- Tính
toán , ứng dụng số
- Đọc-
viết ( literacy)
- Làm
việc nhóm - quan hệ với người khác
- Công nghệ thông tin- truyền
thông ( ICT)
- Sáng
tạo,
tự
chủ
- Giải
quyết vấn đề
Có
nhiều
NL chỉ
riêng cho một nước, chẳng hạn: Những
hiểu biết
liên văn hóa (Úc); Trực giác- intuitive (Nhật); tham gia và đóng góp (Niu Zi-lân); nhận thức
toàn cầu ( global awareness - Singapore); hiểu
biết về
văn hóa, nghệ thuật (Tây Ban Nha); học
độc lập ( Đức); năng lực xã hội
( Úc, Singapore);
Số lượng NL
do mỗi
nước
đề
xuất
cũng khác nhau: có nước nêu 10
NL (Úc); có nước nêu 9 NL (Canada- CT Québec), có nước nêu 8 NL (Tây Ban Nha, Singapore); có nước nêu 7 NL ( Pháp); có nước nêu 6
NL ( Anh, Scotlen); có nước nêu 5
NL (Niu Zi-lân); Nam Phi nêu 4 NL…
Tên gọi
của
các lực
ở
nhiều
nước
cũng rất
khác nhau.
Phần lớn các nước trong khối EU căn
cứ
vào 8 lĩnh vực NL chính mà Hội đồng châu Âu đã thống nhất sau một thời gian
tranh luận gay gắt vào năm 2002[28] để đề xuất (
thêm, bớt ) hệ thống NL cho CTGD của mỗi nước. 8
lĩnh vực
NL chính đó là:
- Giao
tiếp bằng tiếng mẹ đẻ
- Giao
tiếp bằng tiếng nước ngoài
- Công nghệ thông tin và truyền thông
- Tính toán và năng lực toán, khoa học, công nghệ
- Doanh nghiệp, kinh doanh
(entrepreneurship )
- Năng
lực liên
cá nhân và năng lực công
dân
- Hiểu biết về học (learning tolearn)
- Văn hóa
chung
Khi xác
định hệ thống
năng lực chung cần trang bị cho HS, CT bao giờ cũng nêu rõ nội dung mỗi năng lực, tức là trả lời
câu hỏi: năng lực này là gì? Chẳng hạn năng
lực tư
duyđược CT Úc giới thuyết như sau: “Năng
lực tư
duy được xem là trình độ vận
dụng hoạt động
trí tuệ, nó rất đa dạng trong việc sử
dụng thông tin để đạt
kết quả. Năng lực tư
duy bao gồm các yếu tố
như
giải quyết
vấn đề,
ra những quyết
định, tư
duy phê phán, phát triển
lập luận
và sử dụng
các chứng cớ
chứng minh cho lập
luận của
mình. Năng lực tư duy là cốt lỗi
của nhiều hoạt động
trí tuệ.”[29]
Hoặc đây là giới thuyết cho
năng lực
Quan hệ với
người khác của CT Niu Zi-lân: “Năng lực quan hệ
với người
khác là sự tương tác
có hiệu
quả
với
nhiều
kiểu
đối
tượng
trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Năng lực này bao gồm khả năng nghe chăm chú, nhận biết
được các quan điểm khác nhau, thương
lượng và chia sẻ tư
tưởng. HS- người có quan hệ tốt với người khác
phải
là người
mở
ra những
tri thức
mới
và có thể đóng vai trò khác nhau trong những tình huống khác
nhau. Họ nhận thức được ngôn ngữ và hành động của mình
có những
tác động
khác nhau. Họ biết khi nào thì cạnh tranh khi nào thì hợp tác một cách
phù hợp.
Bằng
việc
cùng nhau làm một cách hiệu quả, họ có thể có thể chiếm lĩnh được cách tiếp cận mới, những tư tưởng và phương pháp tư duy mới.”[30]
2.4. Thiết kế chương trình theo hướng
tiếp
cận
năng lực
Muốn thiết kế CT theo hướng này,
cần
phải
xác định
rõ các đặc điểm của chương trình xây dựng trên
cơ
sở
năng lực.Có thể nói đặc điểm bao trùm của CT được xây dựng theo hướng này là việc thực sự chú ý, quan tâm đến tiềm năng, hứng thú và điều kiện của người học; chú ý nhận biết và phát triển đầy đủ tiềm năng của họ. Chương trình theo hướng này nhấn mạnh việc chuyển đổi từ học cái gì đến HS có
thể học và làm được
những gì phù hợp. Theo văn bản Cải cách GD ở
Indonesia[31], CT dựa trên năng lực có các đặc điểm sau:
a) Nhấ
n mạ
nh vào khả
năng củ
a HS
b) Hướ
ng vào kế
t quả
họ
c tậ
p ( kế
t quả
đầ
u ra) và tính đa dạ
ng
c) Sử
dụ
ng cách tiế
p cậ
n và phươ
ng pháp làm thay đổ
i kiế
n thứ
c
d) Nguồ
n tri thứ
c không chỉở
GV mà còn thu đượ
c từ
nhiề
u nguồ
n tri thứ
c khác đáp ứ
ng đượ
c nhữ
ng nguyên lý giáo dụ
c cơ
bả
n
e) Nhấ
n mạ
nh vào phươ
ng pháp đánh
giá và kế
t quả
họ
c tậ
p trong sự
nỗ
lự
c điề
u chỉ
nh hoặ
c đạ
t đượ
c củ
a năng lự
c ( Puskur, 2002a)
So với thiết kế truyền thống, thiết kế CT theo hướng tiếp cận năng lực có sự khác biệt. Thiết kế truyền thống thường bắt đầu từ mục tiêu GD sau đó xác định các lĩnh vực/môn học, chuẩn kiến thức và kỹ năng,
phương pháp dạy học và cuối cùng là đánh
giá. Thiết kế CT theo năng lực trước hết cần xác định các năng lực chung cần trang bị và phát triển cho HS. Những năng lực này có thể nêu ngay trong mục tiêu của CTGD. Từ các năng lực này mới xác định các lĩnh vực/ môn học bắt buộc cần thiết có vai trò
trong việc phát triển năng lực; sau đó phải xác định được chuẩn năng lực cho mỗi giai đoạn/ cấp/ lớp; tiếp đến là xác định những năng lực mà mỗi môn học bắt buộc có thể đảm nhận; chẳng hạn với CT của Niu- Zi-lân[32], môn tiếng Anh sẽ đảm nhận 4 năng lực: a) Sử dụng
ngôn ngữ nói và viết trong giao tiếp và học
tập; b) Trình bày
việc viết và nói thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng (media)
khác nhau; c) Đọc và nghe các
văn bản viết, nói và văn bản thông tin đại chúng; d) Viết được các thể loại ( genres)
khác nhau với những mục đích cá nhân và xã hội.
Môn Toán sẽ chịu trách nhiệm 3 năng lực: a) Giải quyết
một tình huống có vấn
đề; b) Sử dụng
được lập luận
toán học; c) Giao tiếp bằng
việc sử dụng
ngôn ngữ toán.
Cuối cùng mỗi môn học, các năng lực nêu trên lại đựơc trình bày với ba nội dung: Đặc điểm
của năng lực; Kết
quả cần đạt
về năng lực; Tiêu chí đánh giá năng lực này.
Khảo sát CTGD gần đây của khoảng 30 quốc gia, chúng tôi thấy CTGD Québec của Canada là CT được xây dựng theo hướng tiếp cận năng lực hoàn chỉnh nhất trong số các nước tuyên bố xây dựng CT theo hướng này.
*
*
*
Để kết thúc bài viết, chúng
tôi muốn khẳng
định
lại
đôi điều:
Thứ
nhất: xây dựng, thiết kế CTGD theo hướng tiếp cận năng lực người học là một xu thế khá nổi trội, được nhiều nước chú ý
vận
dụng
trong việc phát triển CT, đặc biệt đối với giai đoạn GD cơ sở, bắt buộc. Tuy việc triển khai, vận dụng có những mức độ khác nhau, nhưng khá
thống
nhất
về
quan niệm và cách hiểu.
Thứ
hai: cần phân
biệt
năng lực chung/năng lực chính còn gọi là năng lực xuyên CT với các năng lực riêng của môn học cụ thể. Hai năng lực này có
quan hệ
mật
thiết
với
nhau, nhưng các năng lực chung rất được chú ý trong khi xem xét và đổi mới CT. Vì chúng được sử dụng trong tất cả các môn
học
và các lĩnh vực học tập, phản ánh sự hội tụ, tích hợp và tổng hợp tất cả các kết quả học tập của nhiều giai đoạn. Với ý nghĩa này, chúng là những thước đo
giá trị
của
mọi
người,
khi họ
sống
trong một xã hội phức tạp khôn lường, với các tình huống và những tương tác
đổi
thay liên tục.
Thứ
ba: thiết kế, xây dựng CT
theo hướng phát triển năng lực thực chất vẫn là cách tiếp cận “kết quả đầu ra”.
Nhưng
“kết
quả
đầu
ra” ở
đây là hệ thống năng lực tổng hợp như đã trình bày, chứ không
phải
là một
tập
hợp
các yêu cầu về kiến thức, kĩ năng, thái độ rời rạc.
Thứ
tư: thiết kế và thực hiện CT theo hướng phát
triển
năng lực
cần
phải
nhất
quán từ
hệ
thống
năng lực,
mục
tiêu, chuẩn năng lực, đặc điểm của các năng lực, kết quả cần đạt về năng lực và
tiêu chí đánh giá các năng lực. Tránh việc chỉ đặt ra ở một khâu nào đó của quy
trình GD.
Bài toán cần suy nghĩ và bàn bạc, trao
đổi
để
có lời
giải
là: Việt
Nam
nên phát triển CTGD theo hướng tiếp cận năng lực như thế nào để vừa phù hợp với thực tiễn đất nước, vừa hội nhập đựơc với xu thế tiến bộ của thế giới.
Hà Nội tháng 04/2011
Đ.N.T
Tài liệu tham khảo chính
1. An International Comparative Study of School
Curriculum
– NIER (1999) - Tokyo
2.
Definition and Selection of Competencies (DeSeCo) (http://www.deseco.admin.ch/)3. INCA (2010) –
http://www. inca.org.uk
4. KeyCompetencies
- Adevelopingconceptingeneral
compulsoryeducation- Eurydice,2002
5. Melbourne Declaration on Educational Goals
for Young Australians December
2008
6.
New Zealand Curriculum (2007) - The Ministry
of Education - Wellington, New Zealand. - www.learningmedia.co.nz
7.
National Education Reform in Indonesia
(2006):Milestones and Strategies for the Reform Process by Dr. Ella Yulaelawati
-
http://www. worldedreform. com/intercon
8.
The
Shape of the Australian Curriculum (2008)- http://www.acara.edu.au/
general
9.
The Québec Education Progam (2005): Cross-Curricular Competency - Broad Areas of
Learning- Subject-Specific Competencies
11.Review
motivators - Thematic Probe Curriculum review in the INCA countries: June 2010
12.Wikipedia, the
free encyclopedia - General competence
[1] Viện KHGD Việt Nam
[2] An International Comparative
Study of School Curriculum – NIER- Tokyo-1999- p 33
[3] National Institute for Educational Research (Viện nghiên cứu GD Quốc
gia - Nhật Bản)
[4] NIER- Tài liệu đã dẫn, trang 33.
[5] NIER- 1999- Tài liệu đã dẫn.
[6] Khảo sát việc phát triển CTGD của 21 nước do INCA thống kê, chúng
tôi thấy từ năm 2000 đến nay đã có tới 14 nước tiến hành xem xét, chỉnh sửa CT
với nhiều mước độ khác nhau. Thuật ngữ thường sử dụng trong các văn bản CT là Review ( xem xét lại), Innovation (đổi mới) và Reform ( sửa đổi, cải cách)...
[7] International Review of Curriculum and Assessment Frameworks Internet
Archive- www. inca.org.uk
[8] Review
motivators- Thematic
Probe Curriculum review in the INCA countries: June 2010
[9] Foreword - New Zealand Curriculum
[10]Quebec
Educational Reform - www.6swlauriersb.qc.ca
[11] KeyCompetencies Adevelopingconceptingeneral compulsoryeducation- Eurydice,2002
[12] Trong các văn bản CT của Phần Lan, năng lực được hiểu và gọi là các
kĩ năng cơ bản ( basic skills)
[13] Trong tiếng Anh có các từ như: Competence,
Ability, Capability, Efficiency, Capacity, Potentiality...
[14] Hoàng Phê chủ biên – Viện ngôn ngữ học- NXB Đà Nẵng 2000, trang
660-661
[15] Cách định nghĩa của Từ điển
TV có chỗ không ổn là lấy một từ trừu tượng ( khả năng) để giải thích cho một từ trừu tượng khác ( năng lực). Đúng ra cần nêu rõ năng lực là từ Hán – Việt với hai yếu
tố: “năng là làm nổi việc; lực là sức mạnh; năng lực là sức mạnh làm nổi việc nào đó. ( theo Vũ Xuân Thái- Gốc và nghĩa từ Việt thông dụng - NXB
Văn hóa Thông tin, 1999. tr 576)
[16] Chương
trình GDTH Québec - Bộ GD Canada -2004
[17] Wikipedia, the free
encyclopedia
[18] New Zealand Curriculum ( Tài liệu đã dẫn)
[19] KeyCompetencies Adevelopingconceptingeneral compulsoryeducation- http://www.eurydice.org
[20]Cải cách giáo dục ở Indonesia - http://www.worldedreform.com/intercon/kedre9.htm
[21] Tài liệu đã dẫn: Cải cách
giáo dục ở Indonesia
[22]Khái niệm Competence
thuật ngữ xuyêt suốt CTGD cơ bản bắt buộc châu Âu (EU)Eurydice,2002 - http://www.eurydice.org).
[23] Definition and Selection of Competencies (DeSeCo Project)-OECD
[24]Cross-curricular competencies- Québec Education Program
[25]KeyCompetencies Adevelopingconceptingeneral compulsoryeducation- Tài liệu đã dẫn
[26] Weinert(2001)
xác nhận một tài liệu công bố gần đây về chủ đề này ở Đức viết rằng: có hơn 650 năng lực chính (establishedthatrecentpublicationsonthesubjectinGermany
citemorethan 650 general keyqualificationsorkeycompetencies.”)
[27] Đó là các nước: Anh, Pháp, Đức, Nhật,
Singaporre, Niu-Zi- Lân, Tây Ban Nha, Canada, Scot-len, Nam Phi, Úc ( chủ yếu là theo INCA)
[28] EuropeanCommission2002c
[29] Melbourne Declaration on Educational Goals for Young
Australians December 2008
[30] The Ministry of Education - Wellington, New
Zealand. 2007- www.learningmedia.co.nz
[31]Cải cách GD ở Indonesia- Tài liệu đã dẫn
[32] The Québec Education Progam:
Cross-Curricular Competency - Broad Areas
of Learning- Subject-Specific Competencies- 2005