Dị bản trong
thơ văn,
nhất là
văn thơ truyền miệng là
chuyện không
có gì khó hiểu. Sáng tạo nghệ thuật là một quá trình
liên tục tìm tòi, suy nghĩ, gọt giũa để tác phẩm ngày
càng hoàn chỉnh. Việc thay
chữ này, đổi chữ kia, bỏ dấu này,
thay dấu khác là chuyện bình
thường.
Nghiên cứu các dị bản cũng
như nghiên
cứu các bản sửa chữa khác
nhau của nhà văn, nhà thơ nào đó
là một công
việc hấp dẫn và có
thể rút ra
được nhiều nhận xét, kết luận thú vị. Tuy
nhiên cần phân biệt việc sửa chữa có chủ đích của tác
giả với việc có
quá nhiều dị bản do in
ấn, sao
chép, do sự thiếu thận trọng của công
tác sưu tầm, tuyển chọn, lưu giữ và
công bố văn bản. Việc đầu rất cần làm,
nhưng việc sau rất nên
tránh. Từ các dị bản Bài ca chúc Tết thanh
niên của nhà thơ, nhà
chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu,
có thể thấy rất rõ điều đó.
Ra đời năm
1927, bài thơ được đưa vào học trong
nhà trường từ rất lâu
và dường như không
thấy có gì
phải bàn
cãi, trao đổi. Thế nhưng chỉ cần đối chiếu vài
tài liệu có in bài thơ này đã
thấy vấn đề “không
ổn”, nhất là về văn bản. Cứ theo
sách giáo khoa Văn học 11 thì toàn
văn Bài ca chúc Tết thanh niên như sau:
Dậy ! Dậy ! Dậy !
Bên án một tiếng gà vừa gáy,
Chim trên cây liền ngỏ ý chào
mừng .
Xuân ơi xuân,
xuân có biết cho chăng ?
Thẹn cùng
sông, buồn cùng núi, tủi cùng
trăng,
Hai mươi năm lẻ đã từng chua
với xót,
Trời đất may còn thân sống sót,
Tháng ngày khuây khoả lũ đầu xanh
Thưa các
cô, các cậu, lại các
anh :
Đời đã mới, người càng
nên đổi mới,
Mở mắt thấy rõ
ràng tân vận hội.
Xúm vai vào xốc vác cựu giang
sơn
Đi cho êm, đứng cho
vững, trụ cho
gan,
Dây thành bại quyết ghe
phen liên hiệp lại .
Ai hữu chí từ nay
xin gắng gỏi :
Xếp bút
nghiên mà tu dưỡng lấy tinh
thần,
Đừng ham
chơi, đừng ham
mặc, đừng ham
ăn,
Dựng gan
óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu
nóng rửa vết nhơ nô lệ,
Mới thế này là
mới hỡi chư quân
Chữ rằng : nhật nhật tân,
hựu nhật tân
...
Báo Tân thế kỉ, ngày
3-2-1927 .
(Dẫn theo
sách Văn học 11- sách
hợp nhất 2000-
nxb Giáo dục, tr 85)
Mặc dù
tác giả, hoàn cảnh sáng tác và lai
lịch của bài
thơ hết sức rõ
ràng, nhưng
không hiểu sao lại rất nhiều dị bản. Tuy
chưa có tư liệu đầy đủ, nhưng 07 bản mà
chúng tôi đối chiếu đều khác
nhau, không ít thì nhiều. Khác ít nhất là một từ, ví dụ hai bản cùng
dẫn ra
theo báo Tân thế kỷ ngày
3-2-1927 nhưng một bên là:"Thưa các
cô, các cậu, lại các
anh"( Văn 11- GD, 1991, tr 84), còn bên kia lại là:
"Thưa các cô, các
chị, lại các
anh "( Thơ văn yêu nước và
cách mạng đầu thế kỷ XX, nxb
Văn học,
1976, tr 146).
Ngay cùng một người biên
soạn,
trích từ cùng một nguồn vẫn có 3
chỗ dị bản. Bản đầu (Văn 11- GD.1991) ghi: “Xếp bút
nghiên và
tu dưỡng lấy tinh thần”, đến bản sau (Văn học 11- GD.2000) lại là “Xếp bút
nghiên mà
tu dưỡng lấy tinh thần”; bản đầu ghi: “Đừng ham chơi, đừng ham mặc, ham
ăn”(2 chữ đừng); bản sau
có thêm một chữ đừng: “Đừng ham chơi, đừng ham mặc, đừng ham ăn”; bản đầu: “Dựng gan góc
lên đánh tan sắt lửa”, bản sau lại là:
“Dựng gan óc
lên đánh tan sắt lửa”.
Các bản khác
có rất nhiều điểm không
giống
nhau. Có thể nêu lên những câu
khác nhau nhiều như:
"Dây
thành bại quyết ghe phen liên hiệp lại
" (Văn 11, sđd); ở sách Văn học 11 ( nxb
GD,1991) lại là:"Dây đoàn thể quyết ghe phen liên hiệp lại".
Câu "Xếp bút nghiên và tu dưỡng lấy tinh
thần"
(Văn 11, sđd), ở sách Văn học 11 lại là
:" Cởi lốt xưa mà tu dưỡng lấy tinh
thần".
Câu: "Dựng gan góc lên đánh tan sắt lửa" (Văn 11,
sđd), ở sách kia là: "Đúc gan sắt để dời non lấp bể
"( Văn học11- nxb
GD,1991. Câu này ở Hợp tuyển thơ văn...lại là
:"Dựng gan óc lên
đánh tan sắt lửa ". Ngoài ra
còn có rất nhiều chữ khác
nhau giữa hai sách như "chua với xót"
( Văn 11 ) và "bao chua với xót"( Văn học 11 ); rồi
:"đừng ham mặc, ham ăn"
(Văn 11) và :"đừng ham mặc, đừng ham ăn
"( Văn học 11 ). Câu
này trong bản của Hoài Thanh lại
là:"Chẳng thèm chơi, chẳng thèm mặc, chẳng thèm ăn
"( Phan Bội Châu - cuộc đời và thơ văn - nxb
Văn Hoá , 1978, tr.140 )... Đó là chưa kể đến hệ thống dấu câu của các bản cũng
có nhiều chỗ rất khác
nhau.
Thật khó
hiểu khi cả 2 bản đều ghi
nguồn trích
dẫn là từ báo Tân
thế kỷ ngày
3-2-1927 mà lại không giống
nhau. Hơn nữa với một bài
như Bài
ca chúc Tết thanh niên của một tác
giả nổi tiếng, mới hồi đầu thế kỷ XX thì
các nhà nghiên cứu về thơ văn
Phan Bội Châu không nên để có
tình trạng như thế. Riêng
đối với sách
giáo khoa dùng trong nhà trường, chúng tôi nghĩ
cần nhất quán,
theo bản nào thì nên dùng thống nhất,
tránh dùng các bản khác nhau, sẽ rất phiền hà
trong nhiều chuyện, đặc biệt là việc thi cử .
Từ vấn đề dị bản của Bài
ca chúc Tết thanh niên, chúng
tôi nghĩ nhiều đến công tác lưu giữ, hồi phục và
công bố văn bản, một công
việc hết sức cần thiết và
làm càng sớm, càng cẩn thận, càng
tốt.
Từ trước tới nay,
giới
nghiên cứu nhiều khi đã tốn không
biết bao
giấy mực và
công sức để tranh luận về một vài
chữ của người đã
khuất. Chẳng hạn những năm
70 đã có tới mấy chục bài
viết chỉ xoay
quanh bàn luận, lý giải về một chữ đàn
trong câu thơ của Nguyễn Du ”Gươm đàn
nửa gánh
non sông một chèo”. Đàn là dụng cụ âm nhạc (đàn
nguyệt) hay
đàn là cây cung bắn đạn tròn? Cống hay là cổng trong
câu “ Thâm nghiêm kín … cao tường” (Truyện Kiều). Gần đây hơn, câu
thơ của Xuân
Diệu: “Hai
tay chín móng bám vào đời” cũng gây nên hàng loạt bài
tranh luận chín móng hay chín nóng và cách hiểu câu
thơ đó nên
như thế nào?
Thôi thì những người xưa như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du...
cho đến gần đây
như Phan Bội Châu,
Xuân Diệu... đã khuất,
không hỏi được đã đành, nhưng ngay
cả những người còn sống, tác
phẩm của họ vẫn có rất nhiều dị bản sao
không hỏi ngay, xác định ngay
để sau
này đỡ tốn giấy mực tranh
luận? Bài
thơ Bên
kia sông Đuống của Hoàng
Cầm chẳng hạn. Mặc dù
chính nhà thơ đã chỉnh lý,
công bố nhân dịp bài thơ được đưa vào lại sách
giáo khoa Văn 12 (1992), nhưng hiện nay vẫn có
quá nhiều dị bản Bên
kia sông Đuống. Khác
nhau giữa sách giáo khoa và các tài liệu tham
khảo; giữa các
tài liệu trong nhà trường và
các tuyển tập, giữa báo
và tạp chí.
Người ta
ngâm trên Đài phát thanh một đằng và đọc trên
Đài truyền hình một nẻo...
không còn biết bản đúng nhất của Hoàng
Cầm là bản nào.
Trên báo Giáo Dục và Thời Đại, số 1,
ngày 1- 4-1991 có đăng lại toàn văn bài thơ Màu
tím hoa sim của Hữu Loan, và nói rõ
do chính nhà thơ cung cấp. Đọc văn bản này,
người ta thấy xuất hiện những câu
không có trong bài Màu tím hoa sim của Hữu Loan
in ở tập thơ cùng
tên ( NXB Hội nhà văn - 1990), chẳng hạn đoạn:
Có ai ví như từ chiều
Ca dao nào xưa xa
Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có mẹ già
chưa khâu
.
-
Ai hát vô tình
hay ác ý với nhau
.
-
Chiều hoang tím
Có chiều hoang
biết
Chiều hoang
tím
tím thêm
màu da diết !
Màu tím hoa sim
tím tình tang lệ rớm
tím
tình
ơi
lệ ứa .
Ráng vàng ma và sừng rúc
điệu quân
hành
Vang vọng
chập chờn
Theo bóng những binh
đoàn
Biền biệt hành
binh vào
thăm
thẳm
chiều hoang
màu tím .
Tôi ví vọng về đâu
Tôi với vọng về đâu
Áo anh
sứt chỉ
đã
lâu
.
Mười năm sau,
trên tờ Kiến thức ngày
nay ( số 397-20-8-2001) tác giả Hữu
Vi công bố bài thơ này lại có
thêm những điểm khác, nhất là những chỗ ngắt nghỉ, xuống dòng
và hệ thống dấu câu của bài
thơ.
Đối với nhiều bài
thơ, dấu câu
và cách ngắt nhịp khác nhau có thể không ảnh hưởng lắm tới ý
nghĩa và sắc thái biểu cảm, nhưng với nhiều bài
thơ, nhiều đoạn thơ, dòng
thơ thì dấu câu
và cách ngắt nhịp, xuống dòng
có ý nghĩa rất lớn. Đọc nhiều bài
thơ, tập thơ xuất bản, in ấn gần đây
trên báo chí, sách vở, tôi cứ nghĩ
hình như hệ thống dấu câu
đã bị thủ tiêu. Có những bài
thơ hầu như không
có một dấu câu
nào. Không biết đó là do biên tập, người chế bản hay
do tác giả ( là chủ ý hay sự cẩu thả). Có lần trong
một cuộc hội thảo khoa
học, nhà
văn Tô Hoài đã phàn nàn rằng, nhiều người viết văn
bây giờ hình như “quên hết cả các dấu câu”. Ông thật có lý
khi cho dấu câu là một hình thức của chữ, của từ.
Thật ra
không phải chỉ có dấu câu
mà ngay cả cách ngắt
nhịp cũng cần được xem
là một từ đa
nghĩa, một từ đặc biệt trong
vốn ngôn
ngữ chung
của nhân
loại.
Chúng ta đều biết rằng
trong những tình huống giao tiếp thông
thường của cuộc sống, im
lặng lắm khi lại nói được rất nhiều: khi
căm thù tột đỉnh, lúc xao xuyến bâng
khuâng, khi cô đơn buồn bã,
lúc xúc động dâng trào... Những cung
bậc tình
cảm này
nhiều khi
không thể mô tả được bằng từ ngữ, hình ảnh. Dấu câu
và sự ngắt nhịp là một trong
những phương tiện hữu hiệu để thể hiện nghệ thuật của “sự im lặng"trong
văn chương. Nhiều người chỉ nghĩ đến nhiệm vụ của dấu câu
là tách ý, tách đoạn của câu văn. Thực ra
bên cạnh nhiệm vụ ấy, dấu câu
và sự ngắt nhịp còn
có một chức năng
rất quan
trọng: tạo nên
cái gọi là
"ý tại ngôn ngoại", nghĩa là
gợi ra những điều mà từ ngữ không
nói hết, nhất là
trong thơ. Trong nhiều trường hợp sự ngắt nhịp, xuống dòng
liên tục, đột ngột của tác
giả tạo nên một ý
nghĩa rất sâu sắc. Bài thơ Màu
tím hoa sim của Hữu Loan ở trên
là một ví dụ tiêu
biểu. Câu
thơ Màu
tím hoa sim tím chiều hoang biền biệt được ông ngắt thành
6 dòng thơ:
Màu tím hoa sim
tím
chiều
hoang
biền
biệt
Không chỉ ở câu thơ này mà
nhiều câu
khác cũng đã bị ông "bẻ gãy",”xé nát”, làm cả bài thơ“sụp đổ”, “vỡ vụn” nhằm diễn tả một nỗi đau
tan nát, những tiếng nấc đứt đoạn, nghẹn tắc; một hạnh phúc
đổ vỡ, tan
tành, nhiều mảnh, không thể gì hàn
gắn nổi
... Ở đấy dấu câu
và sự ngắt nhịp, ngắt dòng
đã cất tiếng nói.
Như thế dị bản của một bài
thơ không
chỉ là sự khác
nhau về từ ngữ mà còn
là sự khác
nhau về cách ngắt nhịp, ngắt dòng
và chấm câu
trong thơ. Các nhà thơ cũng
như người biên
tập, sửa chữa; người làm
các tuyển tập cũng như người lưu giữ, công
bố, in ấn cần hết sức chú ý
để chuyển được
nguyên bản sáng tạo nghệ thuật đến tay bạn đọc. Đó
chính là thái độ tôn trọng chữ nghĩa,
tôn trọng lao động nghệ thuật, tôn
trọng người và
cũng là tôn trọng chính mình.
Đ.N.T