CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Tùy Bút

TẦM XUÂN MÙA GAI SẮC

Thứ tư ngày 4 tháng 7 năm 2012 12:00 AM

Dưới chân dốc đá, Tôi ngước lên tịnh xá nơi lưng núi nhoi giữa tầm xuân dại, sim, mua và gió hoai. Mơ ban ngày Tôi cũng nhoai về giãy giụa rớm máu vì gai sắc lúng búng trước cư sĩ Nhất Không và ngắm ni cô nhỏ... Vị xi-rô tầm xuân giao hương rượu nếp cẩm trong cốc bạc trên tay nàng nhói dịu hơn cả vết thương tình.

Định cữ tuần, mẹ lên núi quảy quang trành những bong bóng trâu óc ách rượu nếp cẩm và xi-rô tầm xuân chữa ho mua buôn của tịnh xá. Lũn tũn sau mẹ, Tôi vác chiếc túi da chứa bóng xi-rô, ì ạch một thôi lại buông phịch xuống tảng đá mồ côi, phi pho thở...

Khoảng trống giữa hai kỳ cất rượu, cư sĩ vẽ mực nho, thuốc nước. Đề tài muôn thuở: hoa tầm xuân và người say rượu. Trong lúc mẹ đợi người giúp việc đong hàng, thơ thẩn Tôi lạc bước xem ni cô vẽ. Mẫu bày trên chõng tre: Chiếc chai rỗng, bình tre khắc hoa tầm xuân, trái tầm xuân quả xanh quả chín...

Nghe động, ni cô quay lại nheo đôi mắt sáng trầm. Nàng sửa bông hoa trên mái, đưa bàn tay hoa trỏ đầu cọ ướt màu nước, nhờ Tôi chuyển chõng tre dịch về bên phải một chút cho thật là nghiêm ngắn. Tôi con cón làm theo, dù chõng chẳng nghiêng tẹo nào.

Bù lại, Tôi được vào thư phòng, nhắm mắt chờ ni cô đứng sau cánh cửa tre sắp nhao ra cùng cốc bạc sóng ánh xi-rô tầm xuân pha rượu cẩm sánh như mật ong ngả màu tím. Nàng làm hiệu, Tôi uống nhanh nhanh kẻo ông nhìn thấy.

Ui, ngụm xi-rô tầm xuân quá cữ, búng nếp cẩm khiến Tôi lạc vía, đỏ căng, bước lẹo vẹo như chú trống choai lỡ mổ bỗng rượu nếp cẩm tầm xuân.

Nắng ứa vàng thẫm cỏ cây. Lao xao. Hoa tầm xuân xòe bừng màu rượu sâm banh điểm xuyết ánh của vang hồng chảy tràn sườn đồi và thung lũng. Hoa nụ càng đua chen thì gai nơi mắt lá càng vuốt nhọn, bén sắc. Bướm rờn vòng, ong vo veo vẽ lối. Hằn vai, đòn tre ướt mồ hôi, đưa bước mẹ lựa tránh giẫm lên cánh hoa tầm xuân quá lứa vương bậc đá.

Ngắm chùm tầm xuân trên tóc ni cô Tôi mơ màng. Ừ, sao Tôi không hái hoa cho chị cả, cho mẹ giắt đầu? Cành tầm xuân nghênh gió, chú ong giữa chấm nhụy vàng loay hoay vén phấn hoa vào túi giỏ đeo chân, đáng lẽ bẻ cành hoa thì Tôi lại ngốc nghếch chộp bắt...

Mẹ hạ gánh nơi chân dốc hơ hởi gọi với rằng Tôi cứ ngồi yên đợi mẹ quay lại đón. Tôi bỗng khóc ré, giơ bàn tay buốt nhói xuyên thấu ngực lên trời vung vẫy. Kim nọc ong cắm lút đầu ngón trỏ lều thều đoạn ruột tơ dinh dính.

Bỗng vòng tay khô những gân xương choàng quanh Tôi. Cư sĩ nhổ nọc độc, cô cháu gái má phính rịt vôi ướt bôi mật ong lên vết thương sưng tấy. Môi bụm chặt, trán hằn vết nhăn như là nàng đang đau đớn cùng Tôi...

 Mẹ ngược dốc tới, quăng nón lá, dang đón Tôi vỗ về. Gục vào  mẹ, ẩm nơi mẹ những mồ hôi ngây thơm, khiến ngón trỏ vụt đau đớn trở lại. Tôi òa to hơn.

- Chị yên tâm, cháu sẽ không đau lâu nữa. Mùa hoa tầm xuân ở đây ngày nào người ta cũng bị ong đốt ấy mà....

Âm sắc cư sĩ ấm, nhưng đục rè. Kéo vạt áo lau mặt cho Tôi, mẹ ngẩng lên lảng cái nhìn lặng xa xuống thung lũng tầm xuân. Lần đầu tiên, Tôi thấy trong sắc hoa tầm xuân không thuần là ngọt dịu.

Cư sĩ quờ tay vào khóm hoa rút ra chiếc đòn gánh ám khói hun cật tre, lòng mặt trắng phau vết dao bào nạo.

- Chị dùng đòn gánh mới này ạ. Chiếc kia đặt vai trúng giữa đốt, lại kém nảy…dễ bầm vai...

Mẹ lưỡng lự. Chiếc đòn gánh mới hai đầu vuốt thon như cánh nỏ với hai mấu chốt định vị óc quang, nhìn đã thấy dẻo bền, nhún nhẩy. Bàn tay xanh  xao của mẹ hạ xuống.

Tịnh xá nhờ mẹ mua buôn xi-rô rượu thuốc để có thêm khoản thu từ nông sản và cỏ hoa dược liệu chi trả người làm công. Gánh hàng của mẹ, nhờ chênh giá rượu cẩm, xi-rô tầm xuân trên núi cũng xông xênh tương tép cho cả nhà.

Mươi mùa trước, thày gửi Tôi lên núi cậy cư sĩ kèm cặp. Tôi giúp việc vặt và được ăn bữa trưa, được học tiếng Pháp hoặc chữ Hán mỗi khi cư sĩ rảnh việc.

Nếu Tôi chịu khó đeo giỏ bứt cánh hoa, hái quả tầm xuân thì cư sĩ trả thêm tiền công. Hoa thì cất tinh dầu, quả làm xi-rô, nấu rượu. Tầm xuân dại mọc bông lông bang lang chen lấn sim mua, chồm níu lấy lau lách hoặc ngự chênh vênh trên gộp đá lởm chởm. Suốt gốc đến búp ngọn dây tầm xuân, ẩn dưới cành lá hình lông chim là những cái vuốt sắc như kim tiêm, vô tình chạm khẽ đã bập sột thấu da, đợi cho nạn nhân chuyển động là xé cào tóe máu. Tệ hơn là mũi nhọn của vuốt gai ấy  mảnh và nhạy cảm nên một khi đã xuyên qua da thì sẽ gãy ngậm nằm lại trong bắp cơ, buốt nhói. Nếu không nhể lấy vuốt gai ấy ra, sáng hôm sau vết thương sẽ nung dịch trắng lở loét như bị ruồi trâu chích. Những gai nanh nọc đó giúp ngọn tầm xuân leo bám lên bất cứ đâu nó muốn.

Hái hoa, Tôi không thể không lạc vào giữa mê hồn sắc hoa. Màu hoa ma mỵ chuyển đổi sắc hồng nhạt buổi sáng đến trắng nhợt buổi chiều, vồng lên từ đợt sóng hoa rờn trên nền xanh lá hực tỏa thứ hương nồng nàn đến tròng trành. Lá hoa đập cùng lúc với gai móc vào thịt da và thêm bầy ong say phấn giương sẵn nọc độc giữa nhụy hoa. Hái tầm xuân chín lắc lẻo từng chùm chuông, rực màu cam chói, đang kiễng chân với quả, ta bỗng giật thót, hồn vía bay lạc vì chú gà gô phành phạch vỗ cánh bốc lên ngay mũi bàn chân thì đâu đó quanh sườn, bả vai đã ngập mắc vuốt gai.

Dứt ngày đeo quả, tầm xuân ủ rũ, lá thưa vàng ẻo rồi rụng dần, để trơ ra sợi thân đanh xám như búi dây thép gai loằng ngoằng ẩn nấp trong cỏ rối y như bẫy thòng. Bê, nghé ngác ngơ lạc mẹ chạy chẳng may cẳng vướng dây tầm xuân cũng bị quật ngã kềnh. Người làm công xoay việc sang ngắt thân cây tua tủa gai thành những khúc ngắn dài hơn gang, ươm mầm làm thân chủ cho các trại hồng lai ghép loại hoa mới hoặc bán cho những ai mê hoa tầm xuân leo hàng rào trước ngõ. Không găng tay, cũng chẳng kéo cắt, loay hoay với con dao manh, những bàn tay tóe máu. Máu Tôi dây ướt không ít những khúc nhành hoa tầm giống...

Chút tiền còm, Tôi được thày mẹ cho tùy ý mua sách, mua kẹo bông ở lâm trường bộ. Không ít lần song thân nhìn vết gai tầm xuân cắt cứa trên người con trai lắc đầu, can ngăn. Nhưng Tôi vẫn lao lên núi như thiêu thân băng vào lửa. Tôi chỉ dịu và yên lòng khi nhìn ngắm gương mặt bánh sữa ửng cánh tầm xuân của ni cô ẩn hiện giữa chùm dây hoa. 

Trái tim bé dại của Tôi nhảy lên y con cánh cam bị nhốt trong lòng tay khi gặp ni cô tóc bím gục đầu lên dãy sọt cánh hoa tầm xuân dại ngủ vùi, bừng bừng đỏ như hoa đơn. Mô Phật! Say giấc ni cô ngáy như ve sầu solo. Xi-rô tầm xuân pha nếp cẩm đâu chỉ làm say mình Tôi nhỉ?


Tranh: Đỗ Phấn - Vẽ theo lời kể của nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế

Mười bữa tối dễ chín lần cư sĩ lôi trong ngực áo ra chai rượu nhỉnh hơn bắp chuối tiêu đã trổ nải hình vũ nữ quấn vải đỏ và chén mã não dáng nụ sen. Rượu nếp cẩm tầm xuân có lẽ riêng Nhất Không rõ cách thức lên men chưng cất. Nó đỏng đảnh đến nỗi cứ năm mẻ thì lại đổ đi mất hai vì lý do trời ơi đất hỡi không thể lần ra nguyên nhân. Cư sĩ chỉ còn biết lắc đầu đổ cho vía ai đó nặng nhẹ xía vào khi nhóm bếp.

Hướng dẫn Tôi lựa những cánh hoa tươi hay tuyển trái tầm xuân chín theo những phẩm cấp khác nhau, Nhất Không tỏ tâm nguyện:

- Sau này, trước khi nhắm mắt xuôi tay ta muốn truyền lại bí mật này cho một ai đó xứng đáng...

Nâng chai rượu, khóe môi cư sĩ hằn nếp kiêu bạc. Gió núi tung rối chòm râu thưa trước ngực. Lớp lụa đỏ lăn phăn chảy qua bàn tay khô lộ dáng vũ nữ của sứ ngà. Ngón tiếp ngón rung động nửa muốn nhanh chóng giải phóng nếp vải lụa nửa muốn dừng lại để tận hưởng sự say đắm, vuốt ve chai rượu bên trong lần vải lụa. Chai sứ như vừa thoát y, lộ từ bắp chân đến ngang mày một cơ thể thiếu nữ, e ấp đứng chờ bên chén mã não rêu. Loại mã não giúp chủ nhân vơi giảm giận dữ, trục xuất đau khổ tìm lại cảm xúc bình yên và chay tịnh.

Ủ chén búp sen trong lòng tay để hơi ấm cơ thể dung hòa với ngọc, cư sĩ xếp chén trực diện giữa thành mâm. Ôm chai rượu bên lòng, lẩy, rút, xoay nút chai màu bánh mật vê từ lá chuối bánh tẻ phơi nắng, rồi ông ghé lên mũi hít hơi sâu thẩm hương:

- Rượu nếp cẩm tầm xuân hội đủ tứ phẩm của bậc quân tử: Vị, hương, ảo, linh. Và người biết chơi rượu thì cũng phải có từng ấy thứ tương ứng: Cầm, kỳ, thi, họa. Thù tạc ngộ duyên thì tự rượu và người sẽ tìm đến với nhau. Uống với người tài đã dễ say, uống với nhan sắc càng dễ say. Chót vót là rượu quý uống với cả tài, cả sắc trong một khoảnh khắc không gian thì say thấu ngưỡng vô cùng...Uống mà không uống là tự ta uống với ta trong vô cực thế gian.

Tôi giật mình tưởng Nhất Không đang nói chuyện với ai đó. Không, chẳng  ai cả, ông đang nói với khoảng trống trước mặt. Đậu phụ nướng, măng tươi hấp chấm muối vừng, gió vương vào thêm những cánh tầm xuân.

Một lần mẹ kể chuyện nữ sinh Đồng Khánh, tài sắc, sắm vai vợ chồng với người đồng chí hoạt động nội thành. Giải phóng thủ đô, chàng sĩ quan chờ đợi một đám cưới. Người vợ trẻ, đêm tân hôn thú nhận rằng không giữ mình được trọn... Bỏ xuống phòng khách anh vịn vào chai rượu. Đến sáng, lên gác anh thấy vợ nghẹo trong sợi dây xé từ drap, buộc níu song cửa sổ...

Mẹ chẹp miệng khi kết:

- Dở giăng dở đèn...cả đời phải sống trong dằn vặt... đấy là định mệnh mất rồi....

Thi thoảng có ai đó tìm đến ông trên những chiếc xe quân sự lầm bụi đường, mẹ tất bật dừng việc chỉ lối lên núi. Những người kia, đến lặng lẽ và rồi đi trong lặng lẽ.

Nụ cười ẩn môi, cư sĩ nghiêng bình sứ. Chén ngọc nụ sen sủi tăm  rượu lăm răm đầu kim. Chất lỏng từ tinh cốt gạo nếp cẩm nương và hương của hoa tầm xuân dại ánh sánh màu hổ phách. Cánh tầm xuân trộn nếp cẩm đồ xôi, thảy men bắc ủ cùng hoặc nếp cẩm nương ngấu men, đổ nước pha sau ba ngày lên hương rượu mới rắc cánh hoa tầm xuân lên chưng cất. Hoặc nữa trái tầm xuân chín vẫn cứng như cuội bởi chật chội những hạt vỏ gỗ nên nghiền nhỏ, nấu liu riu với đường trắng, lọc bã vải lụa thì được thì xi-rô chua dịu ngọt mát, bâng lâng thơm. Đó chính là thứ dùng pha với rượu nếp cẩm theo một tỉ lệ nào đó, được hạ thổ trong cát lạnh hoặc trầm thủy: bình rượu ngâm đáy giếng, lòng suối vài năm....thứ rượu mà uống xong rồi sáng mai dậy vẫn thấy hương!

Kết đôi với tầm xuân, phải nếp cẩm nương sinh trưởng trọn nửa năm trên  núi có đủ sương mù, giá buốt, nắng gắt ở những chân rẫy phát đốt thực bì lần đầu, giàu mùn mát, khoáng chất chuyển hóa trong lửa mà thành. Bông lúa như đuôi nghé, thân cao ngang vai người, lá sắc như lá lau. Tách trấu, trăm hạt đều tắp cả trăm, óng tựa ngọc trai đen, thiếu nữ cắn chắt mươi hạt thì môi đã thậm như có son trầm. Và nữa, rượu nếp cẩm tầm xuân đặc sắc còn do nguồn nước. Mạch suối chiết từ đá phiến hoa cương dãy Hoàng Liên chảy qua rừng gỗ dổi, rừng tre nứa ken thân sin sít, văn vắt như thạch anh lỏng, dùng pha trà hay cất rượu, sẽ được đặc phẩm chẳng đâu có. Đặt ly pha lê nước suối ấy dưới ánh đêm trăng tròn, nghiêng nhìn thấy những li ti bụi vàng phân tử như bầu trời sao thu nhỏ lờ lững trong nền hương tinh dầu rừng già.

Mùa mưa, chiều nổi dông, Nhất Không giữ Tôi ngủ lại trên núi. Ông không giữ thì Tôi cũng chẳng dám về. Nửa đêm trăng chồi ra khỏi mây, òa sáng xuống sạp giường trúc. Thức giấc, cọt kẹt nhỏm dậy nhác qua song cửa, Tôi thấy ông già khoác tấm chăn len kẻ ngồi xếp bằng trên thềm, uống rượu bên chiếc hỏa lò gốm kẹp củ lạc nguyên vỏ giữa hai thanh trúc tươi nướng trên than. Củ lạc cách xa nguồn nhiệt cả ngang tay, cư sĩ xoay tròn thanh trúc tại chỗ. Sức nóng thấm từ từ, vây tỏa tứ phía từ ngoài vào trong củ lạc.

- Đã thức rồi thì ra đây ngồi với ta...

Ông lặng đẩy chiếc đĩa đan sợi guột đựng lạc vỏ và chiếc kẹp về phía Tôi, ý hãy tự lo cho mình. Củ lạc gỡ khỏi kẹp, lăn trên lòng tay nhăn nheo da khô, như chưa hề nướng qua lửa, sắc màu như vừa lấy ra khỏi nơi cất trữ. Nhưng chỉ một cái búng nhẹ của ông già lớp vỏ gỗ đã tơi vụn thành những mảnh vụn như bích qui vỡ, phần hạt lạc với vỏ lụa tơi tả hớ hênh, tênh hênh gọi mời.

- Để nướng chín một củ lạc, ta đã phải mất ba mươi phút. Vậy mà để nhai nuốt nó thì chưa cần nửa phút...Và rượu tầm…thì…

Bẻ nửa mảnh lạc, nghiền chậm để tinh bột và tinh dầu hóa sữa trong miệng, khum hai bàn tay ôm chén mã não thi lễ trời đất, cư sĩ xoay sang bên trái,  bên phải nhấp một nhấp đủ ướt môi, yên lặng, ngẫm nghĩ rồi mới nhấp thêm lần nữa, một lần nữa...Ngẫm nghĩ tiếp rồi ông chao lưỡi cho rượu loang đều tứ phía cảm giác rồi mới ngửa cổ...cạn chén.

- Ông ạ, sao người ta cứ phải uống rượu hả ông?

Trầm ngâm:

- Tự ta đã tìm đến rượu và rồi ta biết cất rượu thuốc... Mệnh ta và mệnh rượu lẫn vào nhau từ ngày…Dù mang chín chín vị hương, rượu nếp cẩm tầm xuân mà không có chân hương giống lúa nó định tên khi nhấp môi để từ từ lan đến họng, thấm ngược lên khoang mũi mà không nhận ra hương mặc định thì hẳn là rượu ấy bị pha. Rượu tạp chẳng bao giờ mang hương tự nhiên, thơm được nơi miệng người. Và nữa, hương phải thanh nhẹ, nền nã, phảng phất quanh môi mỗi khi ta mấp máy tồn nghi thì hương đó trỗi dậy khẳng định. Dư vị mượt êm, vừa nhấp đã vuột qua họng... bình thường, nhấp môi chỉ thấy mát lịm. Rượu ở trong mình rồi mới kịp nhận ra hương. Miệng không gây, hơi thở không nhờn, mịn thanh như gió Nam lướt qua đầm sen nở...

***

Cuối tháng cư sĩ xuống núi lệnh khệnh mang theo những ống tre già sấy khô, dung tích nửa lít và một lít, khắc chạm bông tầm xuân trên cật ngà, để đựng rượu lẻ cho khách vãng lai. Xi-rô tầm xuân pha rượu làm thuốc ho đã không cưu mang nổi đời sống tịnh xá. Thứ thuốc ho ấy gần như cho không nên cư sĩ phải xoay thêm việc nấu rượu nếp thuần. Thứ này cõng thứ kia. Như việc đời việc đạo đan chen, hòa hảo. Rượu bán chạy, thày mẹ chẳng kiếm đủ chai thủy tinh. May mà có rừng tre trên tịnh xá.

Thày tiếp rượu Nhất Không trên bộ ván hai tấm một chiếu*. Bày thức, mẹ ý tứ đặt đĩa phụ nướng và đĩa lạc rang, rau kinh giới ngay trước mặt cư sĩ, còn món tép kho riềng, trứng muối thì xoay lại phía thày.

Thử thách chưng rượu tầm xuân là ra lò những mẻ rượu cùng đẳng cấp, ngặt mỗi mẻ phải mang một dấu ấn phong vị riêng. Cùng nguồn nước, nguyên liệu, hương liệu cùng dụng cụ chưng cất và cùng người thực hiện, nhưng không lứa rưọu nào giống lứa rượu nào, vì lẽ đất trời tương giao mỗi giờ mỗi khác. Mà rượu, tinh chất của trời đất, tạo hóa chuyển động, cớ gì rượu lại không du di hương, đung đưa vị ?

Việc cất rượu đòi hỏi sự tinh diệu của nghề mà chỉ có những người có hệ thần kinh và xúc cảm nghệ sỹ mới có khả năng sáng tạo...

***

Mùa hoa ấy, tầm xuân chưa kịp tàn cánh đậu quả thì trên huyện bỗng ban lệnh cấm rượu. Nhất Không nhận được khuyến cáo cấm cất rượu tầm xuân, dù để pha xi-rô làm thuốc ho con trẻ và uống rượu nếp cẩm tầm xuân là duy trì thói quen tư sản và phong kiến. Kể cả những bức tranh hoa không có giá trị động viên lao động sản xuất cũng cần đốt bỏ.

Cùng lúc công trường đá của sinh viên đi thực tế giải tán. Mất chỗ bỏ mối rau đậu, thày mẹ và chị cả vào rừng đốt than. Vừa may, mùa trái tầm xuân cũng chín bói. Tôi lên núi hái trái tầm xuân cho cư sĩ nấu xi-rô làm thuốc.

Nửa buổi sáng, cư sĩ còn chọp chẹp uống trà bên hiên, xế trưa ngang qua tịnh xá, Tôi đã thấy ông đờ tái giữa đồ nghề nấu rượu bày la liệt khắp gian nhà. Giọng nhợ hơi rượu, ông già xõa tóc như đang tế đám đồ vật. Ôm nậm rượu vũ nữ, ông đi quanh lẫm thóc nếp cẩm vỗ bồm bộp, cất tiếng:

- Chẳng lẽ ta lại đem chúng bay thổi xôi hết cả?

Ông chệch choạng lần sang thư phòng bày những ly, những chung, những cốc, chén, bình, nậm, chai, lọ, đủ thứ chất liệu, gốm, đồng, sứ, sành, nhôm, thủy tinh, pha lê khảm bạc, khảm vàng...trong tủ kính, lót nhung đỏ...Ông gục đầu lên kệ tủ như xác con chim lớn nhồi bông.

- Từ hôm cấm rượu ngày nào ông cũng uống say… - câu nói của ni cô kéo Tôi ra khỏi những gáy sách: Cánh buồn đỏ thắm, Thuyền trưởng và đại úy, David Cooperfield... Những áo lụa đỏ chấm bi trắng, lanh mịn hoa đậu biếc thõng hàng trên mắc gỗ... đôi sandal màu hồng, chiếc mũ rộng vành. Và tấm ảnh ông bố thuyền trưởng thấp đậm nghiêm trang sắc phục đứng trên đài chỉ huy.

Tôi ngây ngô im, ni cô ngước hỏi:

- Không ủ men cất rượu, bốc thuốc thì ông sẽ làm gì đây…?

Cư sĩ trở chứng, hễ uống vào là biến mất khỏi tịnh xá. Ni cô và người làm nhiều đêm đốt đuốc soi khắp đồi, thấy ông co quắp trong bụi tầm xuân, râu vo rối, trầy xước, tơi tả, gáy pho pho, phừng mùi rượu.

***

Xong bữa trưa cùng đám làm công, Tôi trải ni-lông dưới vòm xanh tầm xuân tàn hoa, chớm buông từng chấm quả hình chuông. Hoa tàn thì sắp ngày quả chín. Vị xi-rô tầm xuân dịu ngọt sắp sửa dâng mê chót lưỡi. Tôi ngả đầu lên lên hai bàn tay lót sau gáy. Chong chong, đầy mắt một trời xanh vô cùng. Sâu ăn hoa tầm xuân chuyển kiếp làm bướm bốc bay khỏi những khóm hoa hết thì thành những sợi dây hoa lãng đãng lên không...

Con rắn sọc dưa hiền lành trườn khỏi hang nằm vắt vẻo trên cành tầm xuân ngóng nắng, lơ vơ lạc qua bàn chân Tôi nhờn lạnh. Hoảng loạn, Tôi vùng lên chạy băng qua những khóm tầm xuân tua tủa gai sắc. Hai cẳng chân chi chít gai tầm xuân mắc trong da thịt chồi lên như hạt cỏ may, thấm máu..

Đêm ấy, Tôi không thể xuống núi. Một bàn chân bong gân.

Lá náng hơ nóng quấn ngang cổ chân, Tôi yên ngả lên chồng gối trên giường ngậy hương thiếu nữ. Nhòa ánh nến trám vàng ngà, ni cô tất bật dáng người chị lần ngón trỏ trên bề mặt da, chỗ nào cộm tay thì dùng kẹp nhổ chiếc gai tầm xuân sắc hoẻm khỏi cẳng chân Tôi. Bùng nhùng, hỗn mang, Tôi vừa muốn kéo dài mãi những thời khắc ngón tay ni cô trượt chạy trên da thịt và cũng muốn chấm dứt tức thì sự nhói buốt châm chích từ vô vàn mũi gai.

***

Buổi dày sương, hanh nắng,  cánh hoa tầm xuân tung tỏa thung lũng, cư sĩ tắm gội, áo lương dài, khăn xếp, giày da bóng nghiêm trang thi lễ trước bàn thờ ngún khói hương.

Và Tôi chứng rượu nếp cẩm tầm xuân đuợc phôi diễn dưới một tay cư sĩ. Nếp cẩm nương rang chảo gang bằng than hoa, mỗi mẻ chừng ba đấu tới vỏ nóng già mới trút ào ủ bao tải đay một khoảng thời gian hãm ấm trà thưởng xong loạt chén đầu. Cối xay nhấc hai thớt rời, quét, thổi sạch vụn cám cũ, xong, vốc thóc vào xay nhẩn nha. Gạo, trấu bắn lạt rạt áo cối, rơi xuống nong đựng phía dưới nổi hương bảng lảng vị cốm rang.

Nhất Không nghiêm lạnh:

- Các con nhớ: Ngả bỗng có thể giã hay giữ vỏ cám, miễn sao ở dạng nào thì cũng phải thỏa đáng tiêu chí ở dạng ấy. Đã giã thì phải hết cám, gạo tinh sạch y như để làm đồ cúng. Gạo xay xong phải đồ liền tay thì cám mới tươi. Cám tươi, cám mốc đều để lại dấu vết đến vị rượu...Cám tươi có vị ngậy, hương thơm tự nhiên của hạt thóc lẩn vào trong rượu...

Thần sắc cư sĩ chợt sáng, giải một bí mật. Rượu cẩm tầm xuân do nhà sư lãnh đạo nghĩa quân xứ Đoài chống giặc Minh tìm ra gần năm trăm năm trước. Thứ thuốc đặc hiệu chống lại lam chướng giúp người lính gối đất nằm sương giữ tráng khí. Chính tịnh xá là nơi phát tích của thứ rượu ấy. Cư sĩ phải có bổn phận duy giữ cho mai hậu.

...Cẩm xay, đồ hai lần, lượt đầu xôi chín, dỡ rá tre để nguội hẳn mới đồ tiếp lần nữa cho gạo chín thấu và mềm lỉm. Dù là xôi hay cơm, thì nghệ nhân nấu rượu gọi thức trên là cơm bỗng. Với cơm bỗng, nát hoặc khô quá trớn cũng gây phiền cho bào tử nấm men rượu thâm nhập vào tinh thể tinh bột. Chúng sẽ chết đói và dẫn đến hỏng cơm bỗng. Và nữa, xôi ngả bỗng, tránh được sự khê khét bất ưng khi gạo tiếp xúc trực tiếp với đáy nồi.

Xôi nếp trộn đều bằng năm ngón tay cào đi cào lại đan dọc ngang trên mặt nong, giữ các hạt xôi khoảng cách xốp tự nhiên, dày chừng hai đốt ngón tay. Nhất Không cầm đấu bột men, trắng ngà mịn mát, nồng mùi đương quy, hồi, quế như trong tiệm thuốc bắc, nhúm tay rắc đều lên mặt xôi kín từng xen ti mét vuông. Bột men bao bọc kín từng hạt nếp huyền trắng mờ như sương tuyết. Cơm bỗng rải vừa hết thì bột men trong đấu cũng nhẵn veo.

Nào đã yên, cơm bỗng một lần nữa chuyển nhà. Thúng tre hình trái hồng, miệng chúm, lót lá chuối tươi bánh tẻ nguyên phấn hai ba lượt đang đợi. Cơm bỗng đã vào men ở nong, vốc từng nhúm thả nhẹ vào thúng. Lớp sau chồng lớp trước. Lớp này chồng lớp kia. Chốc chốc cư sĩ lại rắc thêm chút bột men bổ sung vào những vạt xôi cẩm còn nguyên màu. Và cơm bỗng vừa mấp mé vành thúng thì đủ độ dừng.

Lá chuối nguyên cẫng, gấp các mép, dùng nan tre đàn hồi, ghim giữ các mép lá yên vị dưới vành thúng. Cẩn thận đặt thúng bỗng lên cao hơn mặt đất hai lượt gạch chỉ rồi úp chiếc vung gỗ chóp nón, đậy kín. Chưa yên tâm, Nhất Không hất hàm, Tôi và ni cô hiểu ý chạy vào kho ôm mớ chăn dạ, chăn sợi bông cào trùm ấm cho từng chiếc thúng.

Sau này, khi Tôi đã biết dại khôn mới hay ủ rượu cũng giống như cô ca sĩ trước giờ lên sân khấu phụ thuộc vào bao nhiêu tùy biến. Lạnh quá cơm bỗng bị điếng lâu ngấu men, rượu ngon, nhưng ra ít. Nóng quá thì men chết, bỗng thối, nấm mọc xanh lè, lợn đói rã họng cũng chê, cố tình nấu thì rượu có mùi bất nhã, uống gây ngộ độc. Còn nóng phe phảy quạt lá cọ, phanh ngực áo thì ôi thôi, ngả bỗng rượu cầm chắc đổ ra suối cho sạch. Để có nồi rượu tốt thì nhiệt độ dao động từ mặc áo chemise đến pull dài tay là ổn. Ngày nóng thì vào men lúc xôi bỗng mát tay. Ngày lạnh thì ngược lại.

Cánh cửa gian chái ủ rượu niêm cứng đến ngày thứ ba. Nhất Không cập rập tra chìa khóa vào ổ thì hương rượu đã ngai ngái cay tràn. Nhấc vung, cư sĩ hít hà, gương mặt phấn khích, hồng ửng. Rón rén mở lần lượt chót lá chuối đã sém xám ra, xôi bỗng trắng xóa các sợi tơ trắng mượt như bạch miêu nằm ngủ, dùng chiếc thìa gỗ mạnh dạn mở một vết thâm nhập vào giữa mặt thúng, lật ngửa một mảnh vảy ốc thì thấu rõ những hạt xôi nhuyễn nhừ, bọt tăm sôi trào, hương ruợu vọt bốc lên hăng cay. Ở thể trạng này xôi ngấu men chuyển hóa lên đẳng cấp rượu cái, hay đích xác hơn là rượu nếp cái.

Chần chừ gì mà không nếm thử chút rượu bỗng.

Mềm lủn, ngọt rượu, cay dịu, tê tê như bị sốc điện sinh học khiến lưỡi đờ đẫn rồi một tia sáng bò ngược lên não, chân tay bỗng lỏng lẻo quờ quạng. Nhịp thở chầm chậm, nóng hổi, thơm cay ngọt, môi hồng căng, thân thể đu đưa chỉ trực xoài xuống chõng...Tăng tửu lượng, chơi khăm bạn nhậu, người xưa thường dùng một bát rượu cái trước khi vào cuộc vui mười lăm hai phút bảo đảm đối phương bò quyềnh quàng thì mình mới tây tây.

Vảy cồn ướt đều vách chum, xòe diêm, lửa cồn cháy xanh phừng phực khử khuẩn, chờ tán nhiệt, rượu cái được chuyên sang. Nước nguồn gánh về từ nửa đêm. Nếu muốn rượu êm, say lâu thì lấy nơi nước lặng, sâu. Thích rượu bốc mạnh thì hứng nước nơi xiết dòng đổ mình trên cao xuống. Đổ nước nguồn vào chum, theo tỉ lệ ba nước một cái cho thể tích tăng gấp đôi, sao cho rượu cái và nước cách hơn tay mới khẳm miệng là chuẩn đẹp. Thuận tiết thì khoảng ba ngày rượu cái sẽ bão hòa toàn thuận trong nước pha.

Cuộc thương lượng, giao kết của mem rượu và tinh bột nếp cẩm chín muồi lên hương sau nửa tuần trăng đạt đến ưu hậu. Cái rượu nổi nênh chen kín mặt chum trong ngày rồi lại từ từ chìm lỉm. Cái rượu ba lần nổi, ba lần chìm, nghệ nhân phải chọn đúng lần nổi thứ ba của cái rượu đem chưng thì mới đắc lợi cả lượng lẫn chất....

Càng đến ngày cất rượu, cư sĩ càng bí hiểm, lầm lì khó tính. Cầm lên, đặt xuống từng món đồ.

Chiếc nồi đồng đỏ bụng phình, miệng thắt cổ bồng, chứa trăm lít chưa đầy được đổi bằng con trâu mộng đánh bóng soi gương, ông vẫn vạch ra được những vết khứa đen mờ. Chiếc tháp tích hơi cao ngang thắt lưng, hình trứng, dày  hai đốt ngón tay có được là nhờ ông kiên trì hầu rượu phó mộc Mường nửa tháng, đẽo rìu và vời bằng nạo bẩy từ cây gỗ hương sét đánh, ngâm dưới suối cả tuần, vẫn lo chưa đủ ẩm, chưa thật mát tay khi nổi lửa sẽ hao rượu. Con ba ba gỗ kiếm gỗ long não trầm thủy ngã ba Hạc nhiều mấu mắt, vân xoáy mới không lo nứt vỡ khi nóng khi lạnh. Ống dẫn tửu được nhà sư già biếu khúc giữa thân cây hóp đực nơi tráng gió, tráng nắng. Chậu làm lạnh khoét hình chảo từ gốc cây pơ-mu của người Hmongz, cũng không thoát cái nhìn soi ra chấm mốc. Củi đun kén cành sồi, cành dổi khô thoăn thoẳn nhỉnh hơn bắp tay, lắm than, giữ nhiệt. Và nữa, cả những bó trúc, bó nứa khô phòng khi cần thúc lửa. Keo gắn khe hở tiếp xúc giữa nồi đồng, tháp hơi, chậu lạnh, nhào bỗng ruợu, tro bếp, đất sét cũng được cư sĩ đưa lên mũi... kiểm định.

Mọi thức đã sẵn, quần the, khăn xếp ông sụp quỳ khấn thắp hương giữa lòng bếp ven suối trước nổi lửa.

Cánh hoa tầm xuân dại vừa buông tay hái được rắc trên mặt rượu cái trong nồi đồng. Những cánh hoa phớt hồng được tuyển từ những bông hàm tiếu, ẩm sương, ứ tinh dầu sẽ thăng hoa trong nồng cháy men rượu nếp cẩm.

Ống trúc dẫn nước lạnh ro ro vào chậu gỗ và vòi trúc có hình chữ A một đầu hút chạm đáy chậu, còn đầu kia cụp xuống xả tong tong trả nước về cho suối. Dìm tay xuống đáy chậu chỉ cảm thấy hơi âm ấm của hơi nóng truyền qua ván gỗ mà cảm nhận rượu ngưng tụ rơi đì độp trên ba ba gỗ đang xoáy chảy trong ống dẫn vào miệng be sành long tong...

 Ngồi trên tảng đá Nhất Không thả chân xuống dòng rêu, cầm chén rượu tỏa hơi nóng, soi lên ánh mặt trời.Ông chạm má vào chén rượu, mắt mờ sương…

***

Mùa hè ấy, Tôi đến nhà dì tằm tang giúp “cho có hơi đàn ông” và để ôn thi lên cấp. Ni cô cũng rời tịnh xá theo ông bố thuyền trưởng nghỉ hè ở biển. Dân quân ập đến bắt quả tang cư sĩ nấu rượu lậu, lục soát tịnh xá lại phát hiện thêm một vật có hàm ý chửi đổng ai đó “đồ ba que xỏ lá”! Thứ gọi là ba que xỏ lá ấy, chính là tấm palette hình chiếc lá, có cắm ba chiếc bút lông phía trên.

Linh cảm điều chẳng lành, Tôi bổ về thì ni cô cũng đã ở nhà Tôi được dăm ngày. Mẹ kịp tin cho nàng. Bồn chồn ngước mắt lên núi, nàng không mảy nhắc xi-rô nếp cẩm tầm xuân. Chưa hồi tâm, bà dì đã nhắn thúc Tôi phải sang trông nhà gấp, tằm đang ăn rỗi. Bên chiếc cối giã đầu chái, cặp má búp bê còn ẩm nước mắt. Nàng trao Tôi chiếc túi gấm thêu nụ tầm xuân, ngập ngừng: Đây là chúc thư của ông, bao giờ lớn thì mới mở xem…

Bàn tay chạm tới bàn tay. Tôi quay bước mà nghe rung động lâu đài thủy tinh sụp vụn trong lòng muôn mảnh cứa. Bao giờ xi-rô tầm xuân nếp cẩm nữa ni cô nhỉ?

Túng quẫn thày mẹ cũng xoay nghề rượu. Nấu rượu sắn gia công cho nhà nước chế cồn và bán chui nhủi cho những kẻ cần kíp. Cư sĩ được tha về thì Tôi đang ở lính, tầm xuân xơ gầy, suối núi khô kiệt. Xóm khẩn hoang, người cây tre, kẻ tấm lá gồi, bó lạt giang xúm nhau giúp ông già lòng khòng như cây cọ hom tàn dựng túp lều nơi nền cũ.

Cư sĩ quên cất rượu tầm xuân mà cũng chẳng vẽ tranh. Lép xẹp túi thổ cẩm, ông chống  khúc tre khô nhổ hàng rào nhà ai đó, khật khưỡng quanh chân núi, gặp ai hoặc không gặp ai cũng rủm rỉm cười. Sau nụ cười là cơn ho khục khặc, nấc lên như sắp nghẹt thở. Xi-rô tầm xuân dường như không có tác dụng với cư sĩ bào chế thuốc ho. Thày mẹ để phần cư sĩ ngày hai bữa chay, úp lồng bàn. Chiếc đòn gánh cài lên mái chái, ngoắc quang trành đứt dảnh.

Khi vào lính Tôi giấu nhẹm túi gấm thêu trong hốc cột góc trên gác xép, chẳng ngờ thày mẹ sửa nhà thuê thợ mộc dỡ mái... Dịp đó ni cô bất chợt trở lại miền đồi, tặng mẹ chiếc áo len cashmere, thày chiếc tẩu thuốc đá bọt. Và gửỉ riêng Tôi chai rượu hầm dòng cognac của nàng tự cất tại một vùng xa xôi nào đó. Chai pha lê không mài cắt, không tem nhãn được chèn chặt những cánh tầm xuân khô trong hộp gỗ sồi với lời nhắn... dành lúc nào Tôi…lấy vợ. Nàng dùng dắng nửa ngày trên núi rồi bứng theo một cội tầm xuân.

Những kẻ săn vàng sa khoáng ở lạch nước từng đặt nồi chưng, vô tình đào trúng hầm rượu. Cả trăm vò. Vài ba vò bị xà beng thuôn và cuốc chim bổ vỡ, rượu tóe loang thơm ngẩn đồi hoang.

Đâu rồi chúc thư trong túi gấm thêu? Xi-rô tầm xuân san ngọt lịm với rượu nếp cẩm không vơi đắng cay mà chỉ thêm say. Hoa tầm xuân đa sắc mỹ điệu khẽ chạm  vào đã khiến Tôi rớm máu.

Chén mã não chuyển sắc ôm ấp rượu nếp cẩm tầm xuân. Gặp cơn lạnh Tôi bỗng co ro con trẻ. Rượu ra chén. Sóng hương hợp thành khói lửa, nước mưa, gỗ bào, đất sét nung, tinh thể vàng thăng quyện vị nếp cẩm như nỗi tầm xuân cố quận thuở rộn nắng ong bay.                                                                   

Mùa trời vắng cánh chim. Ngày vơi, Tôi thức nhớ ni cô đêm đêm về sáng như xưa giữa đồi hoang chưa tan nguôi tê buốt còn găm thịt da vô hình, nơi màu hoa giấu che gai sắc, từ núi đến lũng xa phủ lên phận người cũ ngỡ chỉ biết thưởng rượu và yêu hoa...

N.T.T.K

* Kích cỡ hai tấm gỗ vừa diện tích một chiếu đôi.

Lưu trữ Skip Navigation Links.
Expand  Năm 2012 Năm 2012
Expand  Năm 2013 Năm 2013
Expand  Năm 2014 Năm 2014
Expand  Năm 2015 Năm 2015
Expand  Năm 2016 Năm 2016
Expand  Năm 2017 Năm 2017
Expand  Năm 2018 Năm 2018
Expand  Năm 2019 Năm 2019
Expand  Năm 2020 Năm 2020
Expand  Năm 2021 Năm 2021
Expand  Năm 2022 Năm 2022
Expand  Năm 2023 Năm 2023
Expand  Năm 2024 Năm 2024
Chia sẻ trên Facebook