7. Ni cô làm chiếc phao cho tôi giữa nỗi sợ và đam mê khám phá rừng trám. Mùa trám, chúng tôi tự do xách móm cọ lùng sục những trái trám tự rụng và trái bị anh vũ khua đập, rơi lẩn trong lớp lá trám khô nâu phờ phật rải nền đất. Vốn hay tưởng đến ma, giữa thâm nghiêm vườn một thoáng không thấy chiếc khăn đỏ hoặc hễ lơi khuất bóng ni cô thì tim tôi đã chực thót lên. Đờ đẫn. Mắt nhòa mờ, tôi bặm môi thốt tiếng gọi ni cô trong ngực.
Nỗi sợ không cơn cớ.
Giữa lúc tôi sắp ngớp như cá trên cạn thì ni cô tươi cười ngay trước mặt:
- Sao anh ngẩn tò te ra thế?
Níu thân trám, ni cô chờ tôi lấy lại bình tĩnh. Chúng tôi lại song song dọc hai bên rặng trám nhặt trái. Những trái trám chín bói bị đám anh vũ dính bẫy khua rụng vàng như chấm nắng đọng trên lá khô lấp lánh như sao rụng, như muôn con mắt cười nghịch.
Trám đen chín sau trám trắng đôi tháng.
Trái tím màu rượu cẩm, phủ lớp phấn trắng mờ, căng thuôn như ánh mắt lá răm liếc dài. Cuống trái trám đen nhạy cảm với xung động gió mưa hay cú đáp của bầy anh vũ. Ưa vị bùi béo của trám đen hơn trám xanh, chúng say mồi đua nhau bám đu chùm quả khiến trái rụng ào ào như mưa đá.
Lượm trám rụng đầu mùa là niềm vui hối thúc. Nếu không nhanh trám lẩn xuống đất, gặp nắng lên lá mục duỗi mình che khuất và sẽ bị bầy kiến sừng gặm nham nhở.Chật căng bàn tay lũ trám nhoi qua kẽ ngón dính nhựa thơm hăng. Tôi túm vạt áo, gom trám trước bụng, khi nào khệ nệ như bà chửa mới buông ào vào móm cọ há miệng chờ bên gốc cây.
Chiếc móm đầy nặng, lặc lè.
Tôi giữ lại trái vàng căng, cuống rỉ nhựa, chùi qua, thổi bụi, bỏ tọt vào miệng, lựa thế nhai để trái trám vỡ dập mà răng không chạm vào hạt sừng. Cùi quả trật ra, sần sật. Hai bên hàm chói òa như trúng tia điện bởi nước quả chua dôn dốt, đắng the dâng trào quện dịch vị bỗng tê mê ngọt lừ… Nếu như có nước giếng đá ong hay chiêu ngụm nước mưa hứng mái gồi thì vị ngọt kéo dài tha thiết như dư thanh tiếng chuông…
Ni cô cầm trái trám cung cách của Trụ Trì, giả giọng người già:
- Đấy là những trái trám chín đầu mùa, chúng chưa thật tròn vị nhưng lại ăm ắp những tươi mới của đất trời…
Mùa trám huyên náo dâng trào vào những ngày thu khi hái trám. Bầy anh vũ dường như cũng lộng lẫy phô diễn sắc màu và ồn ĩ hơn. Chúng sà đến lúc tinh sương tới tối mịt mới về núi. Hương vị và màu sắc quả chín dường như cũng khiến chúng thăng hoa, không ngớt chòng ghẹo nhau.
Trám chín từng giờ, từng buổi. Tôi bám sau Nội dưới gốc rừng ngóng lên vòm lá hân hoan múa vẩy bên chùm quả lúc lỉu xanh vít cong cành, dần chuyển sắc ương vàng. Hái trám đúng cữ thì mới có trái ngon. Bởi chỉ lỡ nửa ngày là nhựa trám chảy ứa từ cuống bám vào quả đóng vảy cứng, khi đem ỏm sẽ không tan trong nước như nhựa ẩn trong cùi.
Nội hướng chiếc ống nhòm bọc đồng vàng dài như chiếc đèn pin, xoay qua xoay lại vòng điều chỉnh tiêu cự để quan sát từng chùm quả. Tôi và ni cô khờ khạo lần đầu nhòm qua cái ống đồng giật nẩy mình trước chùm trám bỗng dưng lù lù đập vào mặt.
Nhiều cách hái trám. Nào đóng răng bừa, nào khoan lỗ đổ nước muối, nào quấn dây thép gốc dùng tay đòn níu chặt. Mấy thủ pháp thô bạo ấy gây chột cây, mùa sau kém quả.
Nội sai chẻ nguyên cây tre bánh tẻ, cốn sợi thừng đánh đai quanh thân cây rồi dùng nêm gỗ chèn cứng. Đai tre không thít đứt lớp vỏ cây như dây thép bởi tiết diện to cỡ nửa bàn tay đủ lực ép làm ngưng dòng chuyển vận dưỡng chất dưới đất lên nuôi quả. Hơn chục tráng đinh họ Nguyễn Tham hì hụi chặt tre chẻ lạt, thúc nhau ỏm tỏi níu cạn chiều mới đai dăm ba cội trám. Đánh đai xong, tàn bữa rượu làm mải chập tối, chờ quá nửa đêm, đổ nước muối quanh gốc cây rồi đợi rạng sáng đột ngột tháo đai lạt. Chừng nửa tiếng bao nhiêu trái trên cây bỗng rùng rùng tự rụng, kể cả trái xanh… Nằm trong nhà ngỡ trời đang giáng cơn mưa đá.
Sương lắng dắng lùm cây lúp xúp, các cô các thím te tái ùa vào rừng trám. Tàn cây thấp tơi tả như vừa qua cơn bão. Cả mặt đất trái chồng lên trái như là bãi sỏi thạch anh vàng sau cơn lũ. Không còn chỗ đặt bước chân. Người ta chỉ việc hối hả vốc từng vốc trái thả vào sọt. Để lâu trái ngấm hơi đất, sâu kiến đục và chết nhựa, sẽ sượng trám. Từng sọt trám lần lượt đổ vào nong nia vàng ngộn một góc sân. Riêng cây trám chúa nếu tính trái bằng đơn vị nong hẳn chất đầy ba nong. Đủ một chuyến xe trâu…
Dưới đất người người hối hả thì trên cao anh vũ nhao nhác lượn quanh tìm chỗ. Chúng sà xuống chật chưỡng đậu trên vòm trám mươi phút, bất an lại bùng về núi. Không yên trên núi, nhớ trái ngon chúng két két kêu vang trời lộn vòng cẩn xanh đỏ hồng giữa thinh không…
Trước đám con cháu quây vòng, bà ngồi trên ghế mây, bộ xà tích bạc trễ nải bên hông, toát lên vẻ quyền uy vô hình. Lạ, người đàn bà bé nhỏ đã trắng tay, ngồi giữa trang trại cằn cỗi như chiếc tem so với sân bóng đá ruộng nương ngày xưa nhưng con cháu không mấy ai dám nhìn thẳng khi đối diện. Người từng làm công, từng đấu tố gặp bà vẫn chào hỏi và đi giật lùi.
Bà hướng dẫn thím út dùng chiếc đầu gỗ mít tiện sơn then đong trám chia cho anh em trong họ.
Đấu đong gạo khẳn một cân, nhưng đong trám, thím út be cả hai tay thì phải dôi mươi lạng. Trám nặng hơn gạo. Từng đấu trám được hai bà cô đóng vào móm cọ, buộc túm để riêng. Bà xướng đến tên nhà ai thì người nấy dạ. Nhà nào lĩnh số lượng bao nhiêu móm cọ đã định sẵn cả rồi. Riêng phần các cụ cao niên được nhận của lộc đất, thì đích thân chú út phải buộc móm cọ vào pooc-ba-ga xe đạp mà thồ vào làng.
Với trám đen thì chẳng đào đâu ra cho đủ để đong đấu. Trám đen vốn còi cọc, bé đọn. Trám đen ít hoa, ít quả. Quả đậu mười đến khi thu hái chỉ còn ba bốn. Biếu hoặc trao đổi đều tính theo chục theo trăm. Mua một vài trăm, thêm bớt đôi chục đã là đắt rẻ.
Tôi vinh dự năm nào cũng hai tay hai xách móm cọ bọc dăm trăm trám đen được bà tuyển trăm trái như một, khệ nệ lên Chùa Cao biếu Trụ Trì, đợi ni cô lon xon nhận quà. Và nhận lại từ ni cô chiếc oản bột bỏng nếp lịm ngọt vương sắc hương trầm rồi vòng lại Nhà Thờ rung chuông trai phòng Cha Xứ.
8. Đón mùa trám mới, thường niên bà sắp món xôi đặc vị để Nội đãi Cha Xứ và Trụ Trì. Luân phiên, năm nay xôi trám ruốc bông lườn chim ngói rượu sen thì sang năm trám trắng tươi hầu rượu nếp Vò Gi Sơn Nam hạ, thì năm tới sẽ là trám đen nhồi nhộng tằm lá dâu sóng đôi rượu cúc, năm tới nữa… canh trám nấu gà đen hòa nhịp rượu nếp cái hoa vàng…
Thức bày khi mặn khi chay. Trụ Trì thuần nếp chay. Nhưng thách thức đó lại là cơ hội bà thể hiện tài khéo ứng biến của dâu trưởng họ Nguyễn Tham quản hàng trăm mẫu ruộng, hàng chục quả đồi sơn nhựa, từng tháp tùng bố mẹ chồng xuôi Hà Nội, Hải Phòng giao thương với người Nhật.
Người làm công đang dọn lá vườn trám thì bà đã phát lệnh làm món xôi trám đen. Để dựng món xôi trám theo đúng nghĩa của trang trại Lịch Sơn ít cũng cần hai ngày xếp sắp.
Những bữa ăn bằng nỗi nhớ, uống bằng cảm xúc.
Có lẽ chỉ bà tôi là có đủ tài và thương yêu với người thân để tấu lên những giai điệu và sắc hương ứng biến của món trám. Tự thân trám cũng đủ làm nên thức ngon trung du đặc hữu…Thức ngon đơn mộc mà vi diệu.
Tãi trám ra nong lớn, khỏa vòng quanh, bà lựa những trái trường mình, thuôn thuôn, ánh tím, còn nguyên lớp phấn trắng bao trái ngân ngẩn đóng vào móm cọ. Những quả bị nến - nghĩa là bị bám vệt nhựa chảy từ cuống hoặc nhựa đùn ra từ cùi, hay quả vẹo, quả sâu đều phải bỏ. Ngữ ấy có ỏm cách gì thì đổ cho lợn cũng không đắt. Cùng trám trái thuôn nhưng không phải cây nào cũng béo, cũng bùi.Thảng hoặc có cây cho trái bầu, phấn nhợt, cùi hơi mỏng vậy mà ỏm lên, ăn nếm chơi đã tắc tỏm ngỏn ngon…Cây trái chẳng mấy khác con người, đôi khi hình thức không thể bảo chứng cho nội dung…
Nửa tháng dọc đường làng, qua ngõ nào cũng thoảng hương trám kho thịt ba chỉ, trám kho cá. Bao nhiêu nong nia dần sàng được bày trám ỏm tách hạt đem phơi làm khô trám. Hương trám chua chua dưn dứt chiếm lĩnh dọc đường làng…
Có thế ví trám trắng như gạo tám Hải Hậu, còn trám đen là nếp thơm Tú Lệ. Trám trắng dụng đại trà, vụng chế biến thì vẫn có món ngon lạ miệng. Sự chua chua chát chát kết duyên với mỡ thịt ba chỉ, tanh tao tép đồng, cá sông, cá biển nên sắc nho nhã của bữa ăn. Nhưng trám đen, sơ sẩy thì coi như mất tong cả mùa trám. Một là nó nát như cháo thí rằm tháng bảy, hai là nó cứng như cuội đá, dai như cao su, hoặc nửa sống nửa chín bán âm bán dương.
Ỏm tram - một việc ai biết nấu chín nồi cơm ở đất trung châu tưởng cũng làm được. Nhưng với bà, ỏm trám là chuỗi qui chuẩn nghiêm cẩn nhuốm sắc màu tín ngưỡng. Bà vào ra giữa sân giếng và gian bếp. Tất bật. Bà có lệ vừa làm vừa nói với tôi:
- Sau này bà về hầu nước Chúa, cu lấy vợ thì nhớ dạy vợ ỏm trám như bà đấy nhé. Vợ con giữ nếp nhà thì buộc phải biết mọi việc. Này, rửa trám đen thì phải nhẹ tay. Nước phải duyềnh cao hơn trám hai phần ba. Mở khum ngón tay khỏa nhẹ để bở hết phấn quả. Thay nước, chao đi chao lại đến khi nào nước trong thì thôi.Tuyệt không lắc, xóc để vỏ lụa quả bị trầy, khi ỏm chỗ đó sẽ bị bấy…
Tôi ngẩn ngơ ngắm bà. Bà bé nhỏ như cô gái mười sáu hóa trang khuôn mặt nhăn nếp, mái tóc bạc thành bà lão. Bà sẽ sống mãi. Bà không thể chết. Bà còn đun nước pha trà cho Nội quanh năm suốt tháng. Còn ỏm trám, làm những món trám hầu Nội…
Ỏm trám bà không dùng nước giếng mới múc. Nước giếng ấy chưa thấm dương khí, ỏm trám dễ bị điếng.Tốt, nhuần là nước mưa trữ lu sành hoặc nước giếng được chuyên lên chum vại vài ngày. Đàn bà góa chưa đoạn tang không được lại gần. Đàn ông say rượu phải cách xa. Khi trò chuyện kỵ từ câm, điếc, điếng, nát. Không ai được nhảng bước qua nồi trám đang ỏm. Ỏm trong nồi đồng điếu trám ngon hơn nồi nhôm. Ỏm nồi đất Hương Canh lại tuyệt hơn nồi đồng. Bởi đồng và đất nung giữ nhiệt lâu ở giới hạn tối ưu.
Ỏm trám đen thì mười mươi bà dùng bỗng rượu thau ngâm chiếc nồi đất nặng trịch như cối đá trước vài ngày. Rửa sạch, đổ nước đun sôi bồng dăm phút rồi trút bỏ, sau mới lấy nước tiêu chuẩn, thả muối tinh vừa độ. Đậm như nước muối dưa thì mất thi vị mà nhạt quá thì chênh chao, hẫng hụt. Mở liễn, bà mới liếc chừng lượng trám, lượng nước mà quyết định nhẹ hay nặng tay nhón muối.Tùy tiết nóng lạnh mà gia giảm, nhiệt và lượng muối. Và bà sẵn một lọ con con dấm chuối tiêu nhỏ vào nồi trám ỏm lúc sắp thục. Giữ lửa nhỏ, mở vung canh đáy nồi đợi mọc tăm sủi lăn tăn bóng nước chồi ngược. Nước đã nóng già. Tắt bếp. Lúc ấy trám xuống dịu dàng. Nước dìm ngập trám. Nhẹ tay bà lật đảo giúp trái trở mình. Ngỡ như sợ trám đau. Đậy nắp. Bà thận trọng bắc nồi đặt lên chiếc ổ rơm làm lót nơi góc bếp.Thở thi thót.Trám sẽ nục từ từ. Gạt lọn tóc bạc mướt thấm, bà sáng ngời:
- Cu chạy ra xem ông chữa đồng hồ. Tẹo nữa trám bở thì bà gọi…
Cái tẹo của bà thì cũng phải đủ thời gian hai lần chiếc đồng hồ hiệu Carillon Odo ngự trên phòng khách dạo bản nhạc dài thì trám mới nục. Tôi và ni cô chơi dọn quán bán hàng. Từng tò mò ỏm trám, chúng tôi đã ninh hết nửa gánh củi cành. Kết là cả trám trắng lẫn trám đen trở nên cồng cộc như đá cuội. Không tin trám lại hóa thành đá và hy vọng vào một phép màu sẽ chuyển biến, cả hai chúng tôi ghé răng cắn thử. Kịch! Hàm chối nhức, răng ê ẩm tưởng như hạt trám được bọc cao su. Ni cô ngó trái trám lồi lõm vết răng, rơm rớm thất vọng:
- Bà ơi bà, tại sao khi luộc trám không chín, mà lại chín trong nước nóng già?
Bà vuốt tóc ni cô, dỗ dành:
- Làm thứ gì cũng phải đúng cách, nữa là làm miếng ăn. Chúa đã định thì điều đó không thể làm khác. Ỏm trám cách khác thì quả trám nó phải thể hiện cách khác chứ.
Tôi ấm ức hỏi Nội. Đang chế chiếc bánh xe con ngựa thay thế cho chiếc đồng hồ của khách bị hỏng, Nội dừng một nhịp đưa lưỡi giũa vẻ hài lòng vì sự tò mò của tôi:
- Nhựa trám thoát khỏi quả và tan trong nước om ở nhiệt độ thấp. Nếu đun sôi nước thì nhựa trám đông cứng trong thịt quả chết ngứ luôn ở đấy, cùi trám cứng đanh là vì thế. Con có nhớ là bà đi cắt nhựa trám phải dậy từ tinh mơ không? Mặt trời mọc chẳng làm nhựa trám đông cứng lại đó sao…
Nhiều năm sau nữa, tôi biết thêm vị món trám ỏm các miền trung châu xứ Bắc cho đến cao nguyên trung phần thì chỉ chiêu thức của bà mới có trám đen béo, quánh dẻo và mềm phụp. Dẫu quả olive chinh phục cả thế giới ẩm thực cũng chẳng sánh được trái trám đen ngùi ngẫm tình yêu của bà dành nguyên cho tôi.
Vâng, tham chiếu này chỉ ý nghĩa với ai từng nhâm nhi olive muối mới thấy hết sự thị vị trội vượt của trám đen. Bí quyết, ngoài trái trám ngon vẫn là đúng tầm nhiệt của nghệ thuật tương sính tương khắc thủy hòa, đun nước ỏm. Già lửa thì trám câm dạng. Mà lửa hụt, nhựa trám vẫn tan tán trong nước, nhưng thịt quả không bén nhiệt đủ chín thì phong vị ngậy béo cũng phôi pha.
Giây phút thử trám ỏm, bà lật bật kiếm sợi chỉ tơ tằm xe quấn ống. Bờ môi hồng quyết trầu mim mím, bà mở vung nồi gốm, vớt đôi trái trám nhóng nhánh, ướt ròng ra đĩa sứ Nhật o-van vẽ núi Phú Sĩ phủ tuyết. Đợi trái phả nhiệt mát tay, bà nâng trái trám, miệng cắn một đầu, quấn một vòng sợi tơ tằm ngang thân trái, cổ tay kia khẽ giật nhẹ. Thít chặt. Cùi trám bị xén ngọt, hai nửa tự rời nhau, hạt sừng bong ra nâu nhạt, bóng bẩy. Bà thở phào, chẳng mảy mẩu thịt quả cợn dính theo hạt… trám đang dậy mùi thơm ngân ngẩn.
Đặt trái trám đường cắt ngang tinh khôi trên lòng tay chồng lấn những nếp nhăn, bà cười rạng:
- Này, đẹp không hai đứa? Trông cứ như là hai nụ hoa đậu biếc chờ nở ấy nhỉ…
Ô, bà thật là…quá đúng. Hai nửa cùi trái trám đen thuôn thuôn như hai nụ hoa đậu biết nhu nhú sắp xòe cánh…
9. Mê xôi, mỗi bất chợt nhớ xôi trám tôi không nguôi xót bà cậm cụi sớm mai vần vã củi lửa, dù người đang ở bên Chúa. Chẳng hay trên trời nếu thực thi xôi trám, hẳn bà vẫn là một trong những người nhất nhì thiên giới. Xôi vò, xôi lúa đã kỳ công. Xôi trám không những kỳ công mà còn phải đạt mức tinh diệu ngón nghề và thông tỏ đặc tính vật phẩm kết hợp với nhau sao cho chúng thuận hòa, bật thức chất ngon, vẻ đẹp… Nếu không thì chỉ là lộ cộ mượn hương vay vị.
Thấy bà đăm chiêu trước những trám những nếp, Nội xót:
- Bà sốt mến món xôi trám thế cơ à. Xôi giời cũng chỉ để ăn, cầu toàn quá sinh lao tâm đấy.
- Gì chứ…xôi trám, khi chưa bày lên ngắm và nhai ngẫm đố ai dám nói hay. Tôi mà sơ xảy, người quở trước tiên là ông chứ không phải Cha Xứ hay Trụ Trì đâu ạ.
Trám đem ỏm, vớt ráo để nguội mới bóc vỏ lụa. Khâu này, bao giờ bà cũng ưu tiên tín nhiệm Nico. Con bé khéo tay, không làm dập vỡ cùi trám khi tách hạt và nhất là không ăn vèn ăn vẹt nếm náp như tôi. Trám đen bóc vỏ run rẩy vì thứ ánh sáng tím hồng từ bên trong thịt quả chiếu ra đặt bên nhau như những viên kim cương tím đang chờ mài cắt trong khay pha-lê. Được tách khỏi hạt, bà nhồi nhuyễn cùi trám, vắt nắm trong rá úp lồng bàn chờ đợi…
Tôi lễ mễ bê chiếc đe gỗ nghiến đặt giữa hè bếp để chặt hạt trám lấy ngãy. Ngãy chính là hạt mầm béo bùi được khối xen-luy-lô hóa sừng tròn thuôn vuốt nhọn hai đầu bao bọc. Mặt đe gỗ, Nội đục sẵn biên dạng, đặt hạt trám vừa khít, cầm con rựa nhỏ khẽ bập. Khậc. Hạt sừng tách đôi. Mặt cắt hạt hình lục giác vuốt góc giống củ ấu, chia ba ngăn hình lá, nhưng tối đa chỉ có từ một đến hai khoang chứa hạt mầm. Một hạt mầm đặc mẩy, một hạt mầm nhỏ hơn chút. Khoang trống còn lại lép như cái miệng móm mém. Hạt mầm nhỉnh lắm chỉ bằng phần hai lá mầm lạc. Dùng tăm tre, khêu hạt phần trắng ngần ấy ra bát. Thi thoảng tẻm vào miệng một phát! Chóp chép, căng thẳng lắng nghe cảm giác như là được nhận ân thưởng ngự thiện của Trời. Sao mà phong vị bùi béo của quả đen, lạc, hạt dưa, hạt bí, hạt vừng, hạt dẻ lại có thể ngụ cả ở chấm lá mầm như hạt thóc nếp gọi là ngãy trám. Cũng như thưởng thịt quả, càng chép miệng thì vị ngãy trám càng ngân dài thi vị thăng hoa cái sự ngon thèm.
Hết buổi sáng mấy bà cháu mới gảy được bát ăn cơm ngãy trám. Ngãy rang nhỏ lửa ngả màu vàng hoa hiên là vừa độ. Nung chảo gang trên bếp nóng già, đặt xuống nền đất cho ngãy trám vào sao bằng dư nhiệt. Lá mầm ngãy trám mong manh chỉ bằng nửa hạt vừng, sơ sểnh mươi giây ngãy cháy khét hoặc ươi ưởi ngang vị. Bà tay trần đảo qua đảo lại. Thời gian tính bằng giây. Nước muối pha loãng, bóp bóng hơi thổi nước muối dưới dạng sương mù thì ngãy mới ngấm đều.
Ngãy ăn kèm xôi trám thay cho ruốc lườn chim ngói hoặc trộn vào xôi đệm nhịp giữa hạt xôi và cùi trám…Hạt xôi bị hàm răng nén ép vỡ bắt nhịp luôn với cùi trám nhuyễn đã bùi, dẻo bện chỉ âm thầm chực chui xuống thực quản. Nhưng khi hàm răng gia tăng thêm sức nhai, bỗng gặp sự kháng cự của ngãy trám thì phát ra chuỗi âm lựt phựt, như tiếng nổ của hạt vừng. Nhờ âm thanh đó, vị giác ta mới nhận ra thêm cung bậc khác ngầy ngậy của xôi trám…Ta mới tin rằng xôi trám là có thật ở cuộc đời.
Chẳng mùa trám nào mà Nội quên gửi cho bà Thông Tèo ở Hà Nội mươi yến trám trắng, đôi ngàn trám đen. Ngoài việc sử dụng cùi thì ngãy trám là vị không thể thiếu trong thành phần nhân bánh nướng cổ truyền mà họ vẫn thực thi đón Trung Thu hằng năm. Bánh ấy, họ cũng gửi biếu Nội thường thường đến dịp.
Hạt trám được ni cô cóp nhặt vào túi vải chơi ô ăn quan trong sân chùa Cao với con anh vũ. Còn tôi thì sẵn cái búa đinh của Nội, tiện tay đóng những nửa hạt trám hóa sừng xuống hè đất nện, những hình máy bay, xe tăng. Ni cô khéo thì vạch giúp hình ngôi nhà, con chim, bông hoa, con sao biển, để tôi tẩn mẩn khảm hạt trám xuống.
Ni cô xui tôi lấy thanh đá mài trong hộp đồ nghề của Nội để mài những nét vẽ hạt trám cho nhẵn mịn. Đêm hè trải chiếu hóng mát trên thềm, tôi thường áp lòng tay lên những nét vẽ hạt trám mát lẻm như đá hoa cương.
Giẫm phải sương muối độc rồi lội bùn hái rau muống ao nước phèn trước cổng chùa Cao, gót chân ni cô nẻ răm, không đi nổi dép. Con bé ngồi xoa gót nước mắt vòng quanh. Bà đốt hạt trám thành than, tán bột trộn tinh dầu gấc làm thuốc bôi. Ni cô ngồi trên phản, bà đỡ hai bàn chân xinh mịn đang tấy đỏ, xoa than hạt trám như bôi lớp nhọ nồi…
Đau họng, đau răng bà đều chạy ra vườn trám tìm vị thuốc mà chẳng cần phải đến trạm xá tốn tiền khám chữa. Tôi ra đồi sơn xem người ta cắt nhựa, bị lở ngứa bà chỉ cần đẽo vỏ trám, cạo lớp bần khô, thái nhỏ bỏ vào nồi ba mươi đun nước, tắm đôi ba ngày, da tôi lại yên lành, nhẵn mịn….
10. Gạo nếp quýt đen, nhận vi lượng phù sa của cung sơn Lưỡi Hái dồn cửa ngòi vào cữ cúi bông hạt đã có thể xâu cườm. Lúa khô xếp bồ tre trám nhựa sơn, đáy lót vôi củ. Ăn bữa nào bỏ thóc vào cối giã trực tiếp bữa ấy. Giống nếp đặc hữu của nhà Lang phổng phao dậy thì đã thơm và thơm suốt đến tận mảnh vỏ trấu rơi nơi cối giã. Bà thửa chiếc sàng dùng riêng tuyển gạo nếp quýt, lọc những hạt đọn, hạt gãy. Chỉ những hạt căng mòng như nhộng ong mật nằm lại trên sàng mới vừa ý bà. Đến nước vo gạo nếp nhà Lang cũng được dành riêng để Nội tưới đón hoa mộc hoa sói dưỡng hương…
Chõ sành hơ lửa nóng lau dầu gấc. Lá chuối tươi viền đệm miệng nồi đồng điều chưng xôi tích thủy là thứ nước mưa pha trà, đã dầm đôi khúc mía tím Kim Bôi chẻ tư. Bà khỏa nếp vào chõ, đặt ngang miệng chõ chót lá chuối mật. Úp vung. Thúc đều lửa, canh chừng chiếc đồng hồ Carillon Odo dạo bản nhạc ngắn là vừa ba mươi phút. Xôi đằm thấu hơi nóng, hạt còn hơi cứng… nhưng cũng cần dỡ, đánh tơi để nguội…
Vừa lúc chú út thui xong mấy con chim ngói. Lườn chim ngói sẽ được chế tác món ruốc chim thần thánh để phụ họa cho món xôi trám đen siêu phàm.
Chim hoang về ăn hoa cỏ, thóc rụng ven đồng khô rầm rập như khai hội. Chú út, cắm lá tươi dựng lều, đặt đôi chim mồi khâu mắt. Mỗi lần giả giọng chim gọi đàn, chú lại giật giật dây buộc chân chim mồi để nó giãy giụa vẫy cánh. Mắc mưu, bầy chim tưởng bạn mời gọi đãi đằng, sà xuống tơi tới. Và chú út chỉ đôi ba lần giật lưới đã đủ thức cả tuần.
Chim ngói thui rơm nếp. Tách hai lườn lọc xương, ướp sơ nước mắm nhỉ, bột hạt mác-kén bọc lá chuối tươi ủ tro nóng. Lá chuối tươi xám khô thì bới ra, lườn chim chín đã nức ngọt khứu giác, ứa chân răng. Chưa xong. Lườn được thái ngang thớ mỏng như lát hoài sơn, vị thuốc bắc. Vỉ tre tươi bánh tẻ đan mắt cáo, mở hé, thức ấy lại được kẹp giữa, lật qua lật lại, hong trên than củi. Ôi, từng giọt giọt mỡ chim ngói trong veo vẻ thánh thiện buông xuống than hồng làm bùng nổ cả quầng không khí bởi vị thơm nhức nhối quai hàm, ứa nước miếng thôi thúc. Chẳng cần quá lâu để phiến lườn đanh mặt, ngả sắc nâu bóng.
Bày phôi ruốc lên thớt nghiến, chú út dùng trục cán bột chạy nhẹ nhẹ, như lắng nghe tiếng thì thầm hay lời than van sốt ruột nào đấy. Những phiến lườn khô chuyển mình xép xuống mặt thớt rồi bất ngỡ trỗi mình bồng xốp lên. Và đương nhiên chúng tôi cứ giương mắt lên mà nhìn chú út vừa làm ruốc bông vừa nếm. Ức nhất là mỗi lần nếm chú lại nháy mắt nhăn nhó làm bộ khổ sở.
Sẵn chảo gang sao ngãy trám còn nóng rãy thì sao luôn món ruốc chú út vừa sơ chế. Bà sao ruốc sau để gìn sự chay tịnh tuyệt đối cho Trù Trì. Hơn nữa độ dư nhiệt của chảo gang đủ làm từng sợi cơ lườn chim ngói tơi mình. Ôi, chẳng có gì khiêu khích một cách hung hăng như hương ruốc chim ngói quện nước mắm nhỉ, nó thúc ta nhìn trước ngó sau chực đưa tay nhón nhử…
Bà huơ tay xua chúng tôi xa chiếc mẹt cật tre ruốc một tầm với. Áp lực đã đủ ngột ngạt còn bị chúng tôi bám lẵng nhẵng, bà khó chịu là phải. Trám đen nhồi nhuyễn bắt nắm, xôi đồ chín nước một để nguội trộn đều với nhau. Hạt xôi óng sánh đôi cùi trám đen, hai phổ màu ngọc trai của xôi và dải màu từ mã não đến kim cương tím của trám đen lẩn vào nhau. Màu này tôn cho sắc kia tha thiết, dệt nên miền ngon mà vị giác mơ tưởng. A, suýt quên ngãy trám sao vàng. Bà nhẹ tay, nín thở rắc những mảnh ngãy thơm thảo vào xôi như thợ kim hoàn cẩn quỳ vàng, như nhấn sắc Thu hiện diện vào từng miếng.
Trộn xong thức món, xôi lại được vào chõ để qua lửa qua nước thêm lần nữa. Nhẩn nha thôi, không cần vội củi. Bà hé nắp chõ, để hơi nước thoát nhanh lên cao, không sũng vào xôi vào trám. Hương xôi trám khiêm cung mà kiêu ngạo cứ trồi lên chiếm lĩnh khứu giác ngầy ngà. Đận lửa này xôi mới chín hết tầm gạo, thanh vị không vương nồng do quá nhiệt, hấp hơi…
Đã đến lúc Nội thu vén kính lúp, tuốc-nơ-vít vào tủ kính. Tắm rửa và đóng bộ đũi nâu. Nicô tức tốc băng qua qua vườn về chùa Cao thỉnh Trụ Trì. Tôi luồn cẳng qua khung chiếc xe Peugeot, chắn bùn vảy rồng choi choi nhướn đạp tuân lệnh đi mời Cha Xứ. Ôi tín xứ thiêng, không biết bao nhiêu ánh nhìn của đám trẻ cùng tuổi dọc đường làng cát trắng rợp bóng tre, tán mít chiêm ngưỡng tôi…
11. Áo chùng đen phai xơ, thánh giá bạc trước ngực Cha Xứ dắt xe đạp vào ngõ thì Trụ Trì nâu sồng vá vai, lần tràng hạt cũng tiếp bước cuối rặng trám. Ra đầu ngõ, Nội chắp tay thi lễ. Nghênh chào.
Chiếc Odo hân hoan kịp tấu lên khúc binh boong. Sập gụ điểm trang chiếu cạp điều. Mâm son đũa tre ngà, đĩa sứ thông thênh chờ. Chậu thau đồng nước ấm khăn bông mới. Cha Xứ mời Trụ Trì rửa tay trước. Trụ Trì giật lùi chắp tay nhún nhường. Cha Xứ liền vớt nước rửa tay tượng trưng rồi khỏa chiếc khăn giặt vò mấy nhịp, vắt khô trịnh trọng đưa Trụ Trì.
Chõ xôi giờ ngự trên chiếc hỏa lò giữ nhiệt. Bà chuyên xôi ra ba chiếc đĩa sứ, rắc hành tím chưng dầu vừng khô giòn. Ruốc bông trong âu nhỏ dành cho Nội và Cha Xứ. Ngãy trám sao vàng, búng muối tinh để lệch hẳn góc Trụ Trì. Be rượu sen và chén bạch ngọc.
Ni cô và tôi ú ụ phần xôi trong bát, ngồi chõng tre vẫn nghếch ra hóng chuyện.
Nội rót rượu, trịnh trọng:
- Xin nâng chén đón thêm mùa trám mới…Thêm một lần chúng ta cảm tạ đấng Tạo Hóa…
Hai chức sắc chủ chăn phần hồn dân, bẵng quên thân phận. Rạng cười, họ bưng chén, che miệng như hai ông già ham tiêu giao, lịch lãm. Trụ Trì nhón miếng xôi tày trứng chim câu, cẩn trọng đưa lên miệng. Vừa nhai vừa lắng nghe:
- Vi diệu! Tưởng đến vị hương nào thì thấy ngay vị hương ấy.
Nội cùng Cha Xứ và cả bà ngồi bên dưới căng thẳng, chờ đợi Trụ Trì bình tiếp. Ngài mỉm cười:
- Trám năm nay hơi khô nước, nên ngậy thì có ngậy nhưng không bền sắc bùi như mọi năm… Đầu bếp khéo dụng lắm mới cân bằng được sắc màu của thức hài hòa như thế này.
Gật gù. Gật gù. Nhai ngẫm. Chẳng biết người lớn nghĩ gì nữa. Chẳng biết có sự hài hòa nào đó thật không?
Niêm nót Cha Xứ xắn miếng xôi cũng chẳng lớn hơn cái trứng chim là bao, ngài không vê tròn mà để miếng xôi tự nhiên. Đặt trên lòng tay, ngắm như ngắm một bông hoa, ngài độc thoại:
- Sắc màu hài hòa thật. Phàm là sự sống thì vạn vật đều phải tương giao cân bằng…
Cha Xứ ý thức mọi người đang chờ lời bình phẩm mình với món xôi. Ngài nhắc lại lời Trụ Trì là để lấy đà cho ý kiến của mình:
- Nếp năm nay bì gạo hơi bị dày hơn, nên thơm hơn, nhưng lại không dẻo hơn. Vấn đề vẫn nằm ở tiết không thuận do mưa ít…Nhai hạt xôi không cảm giác hai mặt răng hút nhau bởi lớp cám cách ngăn….Muốn dẻo như mọi năm, thì xôi này phải ủ thêm một phần tư giờ nữa…
Mấy người lấy tiếp xôi. Nhai ngậm. Ngẫm nghĩ. Gật gù. Gật gù.
Nội với nậm rượu rót thêm lượt từng chén. Đành phải bình cái món có tính tầm thường nhất trong mâm. Món ruốc chim ngói:
- Ruốc vấp lỗi nước mắm. Gặp phải nước mắm cá tạp, không thuần loại cá cơm. Nên chim ngói dẫu tuyệt chuẩn cũng bị kéo điểm do nước mắm nhiễm vị ang ai…
Trụ Trì cầm chiếc thìa tre xúc tí ti ngãy trám trên chiếc đĩa gốm nâu, chẹp miệng:
- Ngãy trám thì rang mà như không rang. Tâm quá khứ không có, tâm hiện tại không có, tâm vị lai cũng không có. Sắc ánh vàng như bắt nắng. Giòn đều từng mảy. Có thể coi đạt tới cảnh giới của ngộ…
Bữa rượu xôi trám đen diễn tiến từ lửng chiều trong veo tới ánh dương vàng mơ gieo chân núi mờ. Ba người già chẳng ai nói thêm câu nào nữa. Lặng nhấp rượu. Lặng nhai nuốt nhỏ nhẻ. Giữa tiếng bước chân bà khẽ khàng rảo quanh mâm rượu lúc xa lúc gần.
Bà gần như nín thở mỗi khi tiếp xôi. Với bà, dường như Nội và các vị khách không phải đang ăn mà đang thực hiện thánh lễ trong buổi nguyện cầu.
Một năm Nội có vài lần rượu khách. Cũng chẳng nhất thiết định kỳ.Nội tha thiết mời, nhưng các vị khách thường chỉ gật vào những dịp nhịp mùa chuyển vận. Ấy là mùa trám. Mùa trà xuân, mùa sen nở….
Dù được bà biếu trám tươi lẫn trám khô, nhưng Cha Xứ và Trụ Trì những buổi chiều mùa trám vẫn đoảng qua vườn Lịch. Họ không kêu cầu gì mà chỉ nháy nhủ Nội kiếm mấy trái trám trắng chín cuối vụ nhâm nhi với rượu sen. Be rượu sen nhỉnh hơn bắp chuối đọn. Lỏng chỏng dăm trái trám vàng trong đĩa. Ba bát chấm ti hin đựng tinh ớt xanh được bà giã lọc với muối. Và mỗi người một bát chiết yêu nước giếng đá ong chùa Cao, gác chiếc thìa sứ nặng trịch.
Nội rót rượu vừa láng đáy chén bạch định. Ba người nhất loạt. Cạn. Khà. Hà…à. Mỗi người cầm một trái trám xanh, đụng khẽ vào vào bát chấm của mình. Đưa lên miệng, khẽ cúi cắn nhẹ. Chóp chép nhai… Và nuốt vừa trôi miếng trám thì múc một thìa nước lã trong bát chiết yêu dẫn thực…
Cha Xứ gật gù:
- Chua, đắng, cay, ngái, chát, ngọt….. Cái vị ngọt không phải của đường mới thực sự là ngọt…
- Phải, tất cả ngũ vị ấy sẽ không thể kết ngọt nếu như bản thể chúng không được đưa trở về cái gốc là nhạt…
Trụ Trì đỡ lời. Nội tiếp thêm hai trái trám chín óng đặt lên hai chiếc đĩa lá sen cho khách.
- Thiển ý của bản thân, thì đơn sơ như trái trám sẽ không thể thăng hoa nếu không được kết hợp với sự vi diệu như Liên tửu. Ở đời không có hai việc đơn giản tương tác với nhau lại cho một sự cân bằng… Cái vi diệu bao giờ cũng phải nâng đỡ cho đơn giản.Và cái đơn giản làm nền móng cho vi diệu. Liên tửu nâng cho trám xanh và ngược lại. Sự chuyển luân, lúc này khi lúc kia. Cũng như bộ kim đồng hồ chịu sự chi phối của bộ máy đồng hồ…
Ngồi mâm dưới bếp cùng bà, chúng tôi bị không được nói chuyện to giọng. Bà nhấp nhổm đứng lên ngồi xuống, trông chừng lên nhà, khi thì bổ sung đôi đũa ai đó làm rơi, lúc thì lén đưa chiếc tăm vót kiểu lông đuôi voi cho Nội.
12. Hễ chiều nào Nội ngồi ngáp á à, thi thoảng tháo kính lúp chụp mắt, đấm lưng, gõ cạch cạch chiếc giũa xuống mặt bàn, bà hiểu Nội đã nản rượu, kén cơm.
Bữa ấy, chắc chắn nếu đương mùa, bà sẽ làm món canh trám thịt gà đen. Đàn gà đen choai vộc chừng bảy tám lạng thả bới quanh vườn, nghểnh tai nghe tiếng gọi. Chúng lốc nhốc chạy về trước sân, tranh nhau mổ thóc dưới miệng chiếc nơm đang nghếch chờ. Ba bốn con giãy táo tác. Chú út quơ tay tóm đại một phát. Gà đen không cắt tiết mà phải xiết ngặt cho ngạt thở. Vặt lông ngay. Bà dặn lên xuống, chú út giữ lớp da gà không được rách, vỡ. Mầm lông măng dùng nhíp nhổ râu mà lựa. Thui xém. Đốt lửa rơm nếp bùng bùng. Chao qua chao lại trên đầu lửa sao cho khói rơm ám vàng đều da gà. Sau mới hạ thấp tay, cho lửa ăn già, đủ căng mặt da, thoáng tăm mỡ sủi thì dừng. Rửa dấm chuối. Chặt miếng quân cờ, ướp gừng tươi, nước mắm. Đòi hỏi miếng nào cũng phải có da bám dính. Chảo nóng già, thả mỡ lợn, đảo xèo xèo cháy cạnh. Múc ra bát mai phục. Trám tươi hơn chục quả chín vàng, đập dập thả vào nồi nước dùng cất từ tôm đồng tươi lọc bã. Hớt váng bọt, đợi trám tỏa hương chua dịu thì nối thịt gà vào cùng. Đậy vung kín chừng hai lần đồng hồ điểm chuông. Mộc nhĩ trắng xoăn, mộc nhĩ tím ngâm nở bồng, củ kiện tươi thơm hắc, chẻ hoa lượt thượt lá tóc. Lần lượt gia giản. Đợi thêm đôi phút.
Canh lên bát rực rỡ sắc hoa: màu vàng dịu của trái trám dập như sắp mở cánh. Xương đen, thịt trắng ngà da nâu. Củ kiệu chẻ bông, lá xanh ngăn ngắt, điểm thịt tôm đỏ hồng. Mộc nhĩ trắng như sứa buông xòe tha thướt. Mộc nhĩ tím đỡ tăm gừng vàng sánh ướt mỡ gà…
Khói canh hững hờ. Nước trong ngẩn lẩn sắc ngọt thịt gà tê điếng được vị của tôm đồng làm đồng minh kê đệm vượt quá lên cái ngưỡng của sự chịu đựng thêm mươi phút cơn thèm những muốn đưa ngay thìa nếm thử. Cẩn thận kẻo nóng lợt. Chưa kể thấp thoáng cái tê cay của gừng già củ tươi xốc nách hương thơm củ kiệu hăng một cách nồng dịu hòa vị chua thanh, mát ngọt của trám chủ đạo…như muôn mũi kim găm vào khứu giác…
Nhờ bát canh trám xua đi chán mỏi, buồn phiền để tàn bữa Nội vẫn hăm hở nhấc chiếc nậm sứ hoa sen nhẹ bỗng:
- Bà chuyên cho tôi lưng be nữa.
Sáng ngời, bà nhướn mắt với Nội.
Tôi cũng chìa bát về phía ni cô:
- Đơm cho cu bát nữa.
13. Rồi tôi không thể ở quê mà phải cùng thầy mẹ đi khẩn hoang. Ni cô về miền gió biển thùy dương. Cô mang theo con anh vũ Adi đà Phật. Và túi vải hoa hạt trám chơi ô ăn quan. Chú út đèo hai đứa ra bến Trung Hà, tôi buông vắt ngang khung phía trước, ni cô ngồi pooc-ba-ga.
Buộc lại nút thắt túi hạt trám, chờ con phà bờ bên, ni cô bảo:
- Mặt sông Đà nổi sóng như màu rừng trám gặp bão…
Cô thốt nhiên phăm phăm tiến đến bờ sông:
- Nhìn kìa… có cụ già quần áo trắng tóc trắng đang vẫy tay cười…
Dụi mắt tôi chẳng thấy bóng ai ngoài sóng nước Đà giang xanh quặn. Lẽ nào cụ Tổ hiển linh đặc cách tiễn chân Nico?
Lớp học sơ tán giữa rừng già. Gỗ cây, bương tre cưa khúc đào lỗ chôn chân bàn, chân ghế, kê ván làm bàn viết, ghế ngồi. Hai chục đứa trẻ thò lò mũi ngày đó chẳng có gì đáng nói. Ấn tượng với tôi ngay đầu lớp học sừng sững cây trám trắng ngất nghểu cái ngọn độc, hùng vĩ chẳng kém cây trám chúa nhà nội. Không hiểu sao, cây trám trắng ở đó ra trái quanh năm. Trái không nhiều, nhưng sáng nào đi học sớm chúng tôi cũng lượm được những trái chín mơ. Chỉ cần đi sớm là không phải tranh cướp với đứa nào.Nhưng mánh ấy rồi đứa nào cũng biết. Tranh cướp vẫn hoàn tranh cướp. Ngồi trong lớp học, thoảng nghe bụp một tiếng là cả lớp nhao nhác. May mà trái trám tư mùa không quá chua để cồn ruột những đứa trẻ quê sáng nào bụng cũng chống chếnh.
Một hôm tôi quyết đi sớm hơn mọi đứa. Mon men đến gần sân lớp thì thấy bóng áo xanh quen quen. Ngỡ ngàng, thì ra cô chủ nhiệm, cô giáo Cư. Cô đang nhặt trám. Cô cẩn trọng như đi trên mặt chiếc bánh đa mới nướng. Bỏ qua trái trám chín, cô nhặt những trái xanh. Trái chín dành lại cho chúng tôi… Trám xanh cô ỏm rồi kho với đậu phụ và nước tương. Góc bếp chái vảy thưng phên nứa luôn nôn nao vị trám xanh, đậu phụ bở và tương loãng chua nồng.
Ngày hoa phượng chưa kịp tàn, tên trộm bẫy chim cùng thầy hiệu trưởng vào lính. Rộ mùa trám. Giờ chào cờ sáng thứ Hai, đang sắp hàng, tôi bỗng thấy cụ già áo trắng phơ phất đứng sau lưng cô giáo. Cụ vẫy tay: Lại đây cháu! Tôi chưa kip kinh ngạc thì ngọn trám rùng rùng chao đảo vặn ngang răng rắc. Không rõ tôi hét như thế nào khiến cả lớp chạy tán loạn. Rầm…ầm ! Ngọn trám độc lao thẳng xuống nơi chúng tôi rồng vừa rồng rắn xắp hàng. Cát bụi quẩn bão lốc. Khúc gỗ như trái tên lửa cắm phập giữa những dấu chân trần. Quầng lá rung bần bật. Sang tháng, trường nhận giấy báo thầy hiệu trưởng tử trận đúng ngày giờ ngọn trám gẫy.
Kết năm học, trường đón đoàn dũng sĩ báo công. Chiến sĩ đặc công trên bục sân kho quen quen, kể chuyện luồn sâu, áp sát đồn địch... Thì ra, chính là tên trộm bẫy chim.
Ông Chiềng Vọi - xã đội trưởng họp trên huyện về lệnh dân quân vác rìu chặt cây trám. Bên quân đội cần gấp gỗ đóng quan tài. Chặt cả ngày không đổ, ông gắn quả mìn, giật ngã cây…
Hồn cụ Tổ hiển linh cả những đêm không trăng. Cụ ngồi trắng lóa trên ngọn trám chúa. Quầng sáng trắng bồng bênh sắc mây. Không có tiếng kinh nhật tụng. Không đưa võng. Cụ ngồi nước mắt chảy im xuôi bám chòm râu bạc như đính hạt sương.
Rừng trám nhà Nội lần lượt đốn hạ, đầu tiên là cây trám chúa, cây trám tướng, cây trám quân. Cuối cùng là cây trám đen có hoa không đậu quả, định dành gỗ hậu sự cho Nội và bạn rượu. Con Ky Lu lăn xả sủa đám người lăm lăm cưa rìu. Ai thèm đếm xỉa đến con chó thiến sứt răng tỏ vẻ hung hăng. Một cây trám đổ kềnh, đè bẹp Ky Lu mất tích trong đám cành lá vụn gãy. Những thân trám cổ lão nhà nội xẻ dọc thân thành ván chất lên molotova phủ kín nghi trang, chạy trong đêm xuôi thẳng bến Trung Hà.
Sớm mai từ núi xuống, đàn anh vũ lượn vòng vèo mãi trên rừng trám giờ thành bãi trống, mỏi cánh không chốn đậu, nháo nhác kêu.
Những khúc Odo ca tấu Ave Maria de Lourdes nhắc mọi người ý thức về thời gian tắt ngấm. Linh hồn thời gian gãy cánh. Chẳng rõ lý do gì mà Nội trao đổi chiếc đồng hồ mười hai búa chuông cho gã lái trâu Ba trại bên kia sông lấy con bò nhe[1] bụng ỏng.
ni cô trở lại vườn Lịch.
Ôm đứa cháu gái chấy rận nhà chùa sạm gió nắng đường xa, bà than:
- Sao cháu bỏ bà đi lâu thế? Cây cải thì đã về trời… Nơi đây bây giờ đến rau răm cũng không còn nữa cháu ơi…
Cô đã tặng anh vũ cho người cha làm thuyền trưởng. Con chim chắc vẫn tụng Adi đà Phật khi lang thang các đại dương. Tóa mồ hôi, Nội gảy, chỉnh bánh xe đồng hồ dưới bóng cây mít trước hiên. Bà nhặt củi khô dưới chân vườn xanh. Lễ Phục Sinh, Nội dựng cây Thánh giá gốc tre giữa lô nhô gốc trám cụt nham nhở vết rìu, dấu cưa. Không gian nhà nguyện an nhiên giữa trời và đất. Những cơn lãnh phong thổi lớp mùn nâu đen bay bạt vô tăm tích để trơ lộ sỏi ong phong hóa đỏ khé tựa máu khô và từng dảnh rễ trám trắng hếu loằn ngoằn như bầy trăn bị lột da.
Đi nông trường phụ giúp công nhân hái chè, tôi bị ong đốt sưng lệch bên mắt nên chẳng dám về gặp mặt.
Buổi chiều ấy, ni cô cầm tay bà, đặt mấy hạt trám chơi ô ăn quan nhẵn mòn. Nàng bảo:
- Bà ơi, bà gắng đợi. Cháu sẽ trồng đền lại rừng trám cho bà. Cháu sẽ chuộc lại chiếc đồng hồ cho Nội. Bà ạ…
Tới cữ, trăng vẫn giãi sáng lênh loang đồi hoang, nhưng chẳng còn ai được thấy hay nghe nói về cụ Tổ choàng áo trắng. Ba Vì cao. Sông Đà xanh một mình. U ơ gió cung sơn Lưỡi Hái. Cỏ lau gầy. Bà bới quầng tóc bạc. Trám chín. Nhưng trái không thì thụp rụng sau vườn xanh nữa ….
- Ừ, bà sẽ đợi. Cháu giúp người ta trả rừng trám cho bà….
Tôi lặng nghe bà kể.
Mùa mùa trám rụng song song kiếp người. Trám trắng chát chuanhững thức món cay ngọt mặn; trám đen bùi ngậy, chõ xôi trám nhiêu khê tấu đa hương chỉ dấu trầm luân hằn kí ức. Nội của con, bà của con, các đấng đau nỗi đau đã qua, đâu bằng sống trong day dứt vì những tốt đẹp đã mất. Đất vườn Lịch nhận về song phẳng mọi xác thân.
Rồi ni cô cũng theo phận, phiêu dạt tìm kiếm công danh bên kia đường chân trời.
Tháng 12 năm 2014 - N.T.T.K
[1] Bò nhe: Bò nhỏ,cời, suy dinh dưỡng