1. Rồi độ Ngâu ngại ngần xuôi Bạch Hạc. Xanh bẫng trời neo bềnh mây trắng. Ba Vì cao. Tôi nhớ mình trong nhớ muôn xưa. Thơ dại. Ganh phần xôi trám với ni cô. Nũng hờn bà ngồi chọc kiến vàng đốt sưng ngón chân. Thưa Nội, nắng đã ngẩn sau vườn xanh dầu dãi. Và gió lộng nâng cánh lá trám loang loang trĩu vòm quả, nhún mình thông thênh…
Sông Đà xanh một mình. Triền xanh.
Nửa trăm năm cơn khan cơn lụt, trang trại Lịch Sơn thành vườn Lịch. Liêu xiêu. Nội đấy, bàn tay che ngang trán chặn nắng quái hướng ngàn Lưỡi Hái ngóng đàn chim trở lại vườn ăn trám thu. Rừng trám nghiêm nghiêm sao rừng trám. Cây ken thân, kết cành đan chặn lãnh phong đông bắc thốc vào trang trại xé hoa màu, vò tái xám thịt da.
Ngày hè hoang dại rừng trám miên miên bóng râm cất trữ tiếng chim cài tiếng ve ran rối đan sắc bướm nâng lá tươi thì thào bất tận. Sẽ sẽ. Phăm phăm…
2. Bà nơi cuối vườn bồng tóc bạc. Ni cô lũn chũn đứng bên xách món cọ tòng teng đựng trám.
Rừng trám - lằn ranh giữa vườn Lịch với những lô thửa trồng sơn nhựa ngựa chạy mỏi chân một thời. Nhưng rồi ngựa què, cây sơn chết đứng để bây giờ cỏ lau cuộn sóng hoa khô phơ bạc phông phênh…
Thành tố hồn cốt vườn rừng trung du không cây nào qua được trám. Trồng dặm dăm bảy cây sau chục năm đã có một khoảng rừng với những thân cây lực lưỡng kín vòng tay ôm cao hai ba mươi mét. Trên đỉnh vườn đồi này nhìn sang vườn đồi kia chỉ thấy trám mở những vòm xanh xao động. Ngất khí chất đại ngàn, cánh chim nhao lượn trong sương mù….
Thức món người trung du xa quê nhớ đến đau lòng đâu chỉ lịm ngọt bưởi cam mía mật mà là vị chua dưa sắn, vị chát sung, cọ, và vị đắng trám… mùa mùa. Khói nhang trám vòng vèo ngày rằm, ngày mồng một cay mắt ngóng chân trời bờ tre vờn rặng trám. Ông đồ già phủ phục sân đình vung bút chấm nghiên mực muội trám viết sớ tâu thánh thưa thần cầu mưa ngọt gió lành… Con trẻ trung du lẫm chẫm ngang sườn dốc đã cúi nhặt trái trám rơi trám rụng gặm mút thay kẹo. Chẳng kể trám đen trám trắng. Vị chát vị chua biết trước ngọt bùi.
Ngóng quê, vườn thường xanh tôi chạnh nhớ trái trám buồn rụng chân trời thu cố quận.
Địa mạo nước Việt hễ đâu lô xô đồi gò, chênh vênh sườn núi, thảm thực bì phủ kín đủ ẩm dưỡng thì đấy có loài trám hiện sinh. Trám lớn nhao vượt lên thống soái như bầy khổng long cổ dài trắng lóa đội mào xanh ngạo nghễ nhìn xuống các tầng rừng. Góc vườn rừng trám, những cơn mưa trầm mình tích thủy nuôi mạch nguồn lúa ruộng. Khoảng ao làng lênh đênh bèo tím. Khoai ngứa ven bờ trổ hoa hoe vàng bậc đá ong sóng nước.
Thứ trái thực khách Âu- Mỹ bảo đấy là Chinese white olive và Chinese black olive thì miền Nam đặt tên mắc cơm, miền Trung kêu cana, còn xứ Bắc gọi trám đen, trám trắng. Tên cây mỗi miền mỗi cách. Thân cây khúc thẳng, khúc cong nhưng sắc màu hương vị chát chua đắng ngặn, chép miệng thở than mới thấy ngọt đằm thì mọc lên từ tọa độ nào của đất nước cũng đều là phiên bản của nhau.
3. Chiều sẫm Ba Vì, Nội ngước lên vòm trám động cánh chim anh vũ. Ưu tư.
- Giống cây đa đoan. Kẻ sính bào chế thì bảo cây dược liệu hóa mỹ phẩm. Người thích ăn cãi rằng đây cây thực phẩm. Ai trong nghề xây dựng khẳng định trám là cây gỗ công nghiệp…
Người nông trung du lập trại ấp mong để dăm gốc trám nếp sinh hoa kết trái truyền cho con cháu coi như để lại một gia tài. Thuận thảo, dưỡng trám trồng mất sáu bảy năm mới bói quả. Nếu phải lứa trám đực thì mất từng ấy thời gian chăm chờ. Gặp vận rủi ốm đau, chạy quanh không vay giật nổi họ hàng, chủ rừng mới đành bán đứng cây trám. Khách mua gửi cây của tại vườn, nhờ trông coi và chia đôi hoa lợi. Đợi chủ cũ khi nào dư tiền rộng lòng cho chuộc lại. Gặp kẻ mua cần việc sốt thì sáng trao tiền, trưa đã đào trốc rễ. Chỉ những cây sầu, cây thiên lôi giáng búa, cây cái lại giống hóa đực tức thì bị chủ rừng đưa vào diện khai tử lúc đầu thu.
Rừng trám cho quả là tiền chẳng cần cất rương mà nhờ đất đai giữ dưỡng. Nguồn tài sản ấy ngày một sinh lợi bền chặt. Từ gốc tới ngọn cây trám thứ nào cũng toát lên sự tảo tần tha thiết. Lá khô gom hum khói xua muỗi, sưởi ấm trâu bò. Lá tươi chứa tinh dầu sinh nhiệt cao dấm chuối, hồng xiêm, đu đủ cho mau dậy hương. Vỏ cây quả xanh quả chín giữ đầu vị hàng chục đơn chế Nam dược. Nhựa se hương nhang, làm mực viết sớ, vẽ tranh.Thân trám trắng thẳng tưng như cột điện bóc ván ép.Trám đen, trám hồng xẻ kèo cột ván thưng và ván hậu sự…
Yên phận xoan, sung chuyên dựng tủ, ghép rương, thùng. Người già trung du tới cõi định trước gỗ trám đen ngâm bùn ao đóng hòm. Khoác cỗ áo cây gỗ trám quê về hầu tổ tiên thấy yên lòng hơn vàng tâm, dổi găng xa lạ trên ngàn. Dẫu huyệt mộ đặt dưới gốc trám cũng chẳng ngại rễ trám xuyên xương thịt.
Mọi thức của cây trám người nông đều nâng quí nhưng trái trám vẫn được đặt lên thứ bậc cao nhất.
Trái trám kết tinh của cây trám, rừng trám và mùa trám.Trái trám - tin điệp kết nối trung du với các tọa độ phố thị đất nước. Đặt trái trám giữa lòng tay người xa quê cũng đủ hình dung vùng đồi mùa này nắng nhiều mưa ít hay sương khói miên man. Ngô lúa bội thu hay sâu chuột. Nhìn lớp vỏ quả căng tươi hay nhăn xỉn biết trái trám rời cành qua tay người hái đã lênh đênh vượt bao nhiêu dặm núi ngàn sông.
Tự quả trám đã đa vị chát-đắng-chua-ngọt và người Việt bồi tiếp thêm mặn-cay để ứng năm hành thủy-hỏa-mộc-kim-thổ… Dù chế biến cách gì, thì trái trám cũng chỉ xoay chuyển ngũ vị và bù trừ âm dương để làm nên vô số thức món tự trái trám.
Phố thị biến trái trám thành đặc sản đặc vị thưởng thức theo mùa; mứt trám, ômai trám, salát trám, trám dầm, trám kho cá, kho thịt ba chỉ, trám đông lạnh…
Thôn quê nghiêng về xu hướng dự trữ nguồn thực phẩm sạch dùng dần tùy gia cảnh mà người ta làm trám sấy, trám phơi khô, trám ngâm mắm, ngâm tương, nấu canh, trám xôi…trám ỏm chấm muối vừng. Đặng dôi mươi đồng không phải mua thức mỗi ngày đắp đổi vào bút mực, vở viết con trẻ, thuốc lào, diêm muối, dầu hỏa, trầu cau…
4. Xong ngày Ngâu đã phập phồng lo mùa trám chín.
Trái trám tôi lượm cùng ni cô chân vườn rừng sẫm tối trên thảm lá khô xạc xào mỗi cơn gió đồi hoang trườn qua khẽ khẽ thở dài mấy mươi năm vẫn ngẩn sáng. Con chuột chạy, con bìm bịp giật mình vỗ cánh cũng đủ xé toang thế giới bình yên lộng căng voan mỏng. Và giỏ trám đẫm ướt. Giọt giọt sương sượt qua mí mắt động tiếng bầy anh vũ lảnh lói bình minh bỗng tần ngần dưn dứt chua tê hàm răng chớm bập vào trái chín.
Góc vườn Lịch, trên chiếc sập gụ chạm thông trúc cúc mai khập khễnh, chân chống gốc tre, Nội tiếp Trụ Trì và Cha Xứ. Hai người khách chung thân ngồi vấn mùa trong tiếng chuông Nhà thờ, chuông Chùa Cao và đồng hồ Odo điểm thời gian.
Sập và đồng hồ từng bị tịch thu chia nhà bần khó. Người bà con xa nhận quả thực, đem trả Nội. Nhưng sập gụ chỉ còn một chân. Linh hồn thời gian đột tử, đồng hồ bung đứt lò xo, bánh xe lởm chởm đựng bị cói…
Phó mộc làng khoanh tay nhìn sập gãy. Nghệ nhân Sơn Nam hạ thì đã nhập hợp tác không vác cưa đục đi xa. Gộc tre thay gỗ gụ tạm chờ. Nội tìm lại mình trong công việc giũa, mài khôi phục những chiếc bánh răng đồng và nối vòng cuộn dây cót thép bằng đinh tán… Bản Westminster nhạc hiệu đồng hồ Big Ben treo đỉnh tháp cung điện Westminster, Luân Đôn được Nội dìm xuống để khúc Ave Maria de Lourdes - biến thể nhạc phẩm của Franz Peter Schubert luôn ngân nga. May mà những bông hoa trà Camelia, thứ hoa của những người yêu nhau chạm nổi rung rinh trên thùng gỗ và hoa linh lan - mọc lên từ những giọt nước mắt của Eva khi bị đuổi khỏi Thiên đàng cẩn vàng trên mặt kính trầy xước vẫn còn khôi phục được.
Đồng hồ Odo rùng rình ngân chuông trở lại hòa nhịp chuông Chúa và chuông Phật. Nhưng trang trại Lịch Sơn không còn cây sơn nhựa. Cả vạn cây chết đứng vì hợp tác xã vắt sức kiệt cùng, rũ những túm lá khô, thả lả tả vào gió…
Duy chỉ chòm trám cổ cuối chân vườn còn sức để xanh. Ấy là di dấu rừng nguyên sịnh từ thời cụ Tổ dắt dân lập ấp khẩn hoang sót lại.
Đám thợ cắt sơn thất nghiệp thì thào với bà rằng, thi thoảng họ gặp cụ Tổ mặc đồ trắng lướt thướt níu võng trên hai ngọn cây trám những đêm trăng suông.
Đêm trước ngày máy bay Pháp quăng bom xuống trang trại, cụ Tổ hiện về phủ phục trên ngọn trám chúa bái lạy trời vỡ bùng cơn mưa sao băng đỏ bầm màu máu trong tiếng cầu kinh. Bài kinh nhật tụng Lạy Cha…
Vườn Lịch rùng mình.
Rừng trám bỗng xoáy dâng cao một vết sương mờ quẩn bóng anh vũ giăng hàng so cánh. Ấy là mùa hái trái. Mùa thu cũng là mùa đo vanh[1] gốc tính tuổi cây. Mỗi vanh ứng với độ dài một gang tay người trưởng thành đo chu vi thân cây. Qua số vanh người chủ biết lượng gỗ tăng trưởng hằng năm của vườn rừng. Tháng Giêng đến, chủ vườn lại trồng xen vào khoảng trống những cây non: Trám đen và trám xanh.
Trám xanh, cây trẻ, cây già đều căng tròn, suôn cột cờ. Tán tròn trĩu nhánh đan đều, cành mau, tăm dày, lá rậm. Cây trẻ vỏ trắng y lũ học sinh bạch diện. Cây già nâu sậm, gốc bành rễ nổi như bầy trăn gió gồng mình chui đầu xuống đất, vỏ nứt dăm dọc thân để cho rêu và địa y làm chốn ươm hạt, cắm rễ bám víu sống leo…
Trám đen dẫu còn non hay đã già, thân cây vượt tầm với đã vội còng queo, vặn cành, quắp nhánh, tán thưa, lá mỏng vẻ khắc khổ. Sắc lá thâm tối, ủ ê. Cùng tuổi, nhưng trám đen sinh khối chỉ bằng nửa trám xanh. Giữa gã trai thị thành và trám xanh dễ thấy sự tương đồng bới sự phổng phao phồm phộp. Còn thấy trám đen thì nghĩ ngay đến anh trai làng củ mỉ cù mì cặn còi cóc cách…
Tôi chưa một lần bén mảng tới rừng trám một mình nếu không đi cùng ni cô bên chùa Cao. Cô bé mũm mĩm, mắt tròn ngơ ngác nhìn xoáy vạn vật, hồn nhiên xông vào mọi khoảng tối của rừng. Hình hài ma quỷ đêm mưa chớp giật ẩn dưới vòm trám nhe răng múa vuốt vụt hiện giữa ban ngày. Và tôi bỗng nhiên bé xíu một cách kỳ cục giữa những thân cây ngất ngưởng. Mơ màng hư thực lạc vào xứ Lilliput hay Brobdingnag mà Jonathan Swift đã kể.
Thiên nhiên dội vào tôi ký ức nguyên sinh.
Làm sao cưỡng nổi hấp lực đặt bước trên thảm lá trám khô dày êm lành như nệm cỏ. Mỗi bước phùm phụp lại trào hương thơm cay dịu của trám ẩn tàng trong xác lá vây quanh. Tôi thơ thẩn dưới tàng bóng rợp của cây trám chúa bên nico xé lá chơi bán hàng nghe mây qua trên lá xanh, ngắm chim hót lưng trời lộng.
Thâm uy trám chúa vanh gốc bốn người lớn chăng tay chưa chạm nhau, vút lên lừng lững hai tầm cây tre, đỡ vòm tán che kín nửa sân bóng đá. Hình như thuở khai sinh lập địa tạo hóa đã gieo hạt cây trám chúa.
Những buổi rượu trám, Nội và hai vị chân tu hướng ra cuối vườn phỏng đoán ba bốn năm trăm năm gì đấy tuổi cụ cây. Nếu muốn tính chính xác thì phải cưa cây hoặc dùng mũi khoan đủ dài khoan thấu tâm cây lấy mẫu vòng sinh trưởng… Nép bóng trám chúa, cây trám đen mùa đến là trĩu hoa đầu cành. Vanh hai người nối tay. Bỗng từ ngày Cụ nội mất nó không chịu đậu quả. Bà đã làm đủ phép chữa chứng vô hậu cho nó. Tôi phải trèo ngồi trên nhánh đôi cây trám để bà tra khảo. Tiếng roi tre rít gió, quất vào thân cây đon đót, bà gằn:
- Trám đen, mày biết lỗi chưa?
- Dạ con biết rồi.
- Tại sao ra hoa sao mà chưa chịu đậu quả?
- Vì con mải chơi ạ…
Tôi buột miệng trả lời bà.
Bà xin nước phép của Cha Xứ, nước Cam Lồ của Trụ Trì để tưới vào gốc nhưng cây trám vô hậu cũng chẳng bận lòng. Nó vẫn mơn mởn, rờn xanh phô phang sự sung sức. Hoa thì có, quả thì tuyệt không.
Cha Xứ nói vui:
- Thôi, chắc nó muốn hầu ba chúng ta mỗi người một bộ ván đây mà.
Nội chắp tay nghiêm túc:
- Dạ, tôi xin lãnh ý bề trên.
Sớm mai, móng guốc trâu bổ lối đi cày chen ngang tiếng két két hân hoan bầy anh vũ đầu xám đáp xuống rừng trám. Giống chim đỏm dáng tương quan với sự thông minh xứng bậc thượng lưu thế giới thiên cầm đã linh cảm tới ngày thưởng lãm trái trám xanh chuyển sắc thì ngọt giọng. Chúng dập cánh neo mình giữa thinh không, chỏm đầu xám hồng lắc qua lắc lại, ngoắc chiếc mỏ khoằm như trái ớt sừng bò, ngắt trái trám căng bóng, vàng rượi mỡ màu nhất chùm quả rồi bay đậu cành cao nhất. Điệu nghệ, chú anh vũ đầu đàn xoay xoay trái trám trong mỏ chán chê rồi tung lên cao, nhún mình há mỏ đỡ. Nó nhẩn nha gặm nhấm cùi quả, mắt long lanh hai chấm cườm, ngậm nắng.
Lịch kịch. Nội quờ chiếc điếu bát nơi mặt sập. Chiếc bình đèn đồng thau móp mép, tim bấc lom rom. Đóm tre lập lòe. Xe điếu trúc đon đót rít xoáy hòa âm tăm nước sôi bậm bục siêu đồng đỏ mà bà đang thư thái quạt lò. Rạng sáng, sương đọng trên lá ngoài vườn dồn về uốn cong phiến buông giọt lụp bụp xuống xác lá già năm trước đang phân rã hóa mùn.Giữa tiếng sương khua động, lác đác trái trám trắng chín hươm, ứ nhựa thịch thịch buông mình. Trám chín bói căng dưỡng vị: chát, chua, đắng, ngọt, bùi phải lìa cành trước…
Thức giấc, nhưng tôi vẫn chưa cách gì nhấc mí mắt cứng đờ, ríu sụp. Lăn bên này, vật bên kia ư hư nũng bà, nhưng tay hẫng vào khoảng trống lật bật của mặt đệm bông lau, tôi nhè nhẹt:
- Bà đâu …bà đâu. Bà bỏ con một mình…hịhị…hịi…
Trong mộng mị, tôi tụt khỏi giường, chệch choạng hướng về phía ánh lửa bếp. Vừa lúc bà dừng nhịp chiếc quạt lá cọ, nói với lên nhà trên:
- Trám đang rụng.Ông có nghe thấy không?
Nuốt ực khói thuốc, Nội cự:
- Rụng đôi quả thì đã sao.Năm nay ngâu dài, nước dư, trám chưa ráo hạt.Thêm non tuần nữa, Cha Xứ đi làm lễ bên Ngàn về.Và Trụ Trì cũng xong kỳ trai giới mùa Thu.
- Nghĩa là chưa bày rượu phải không ạ?
- Thư thả. Sương xuống chưa dày.
Phụng phịu tôi gục sau lưng bà. Bàn tay bà vỗ về.
- Chiu.. chiu… cái giống của bà. Dậy sớm cay mắt làm sao bà đền cháu bà được đây…
5. Trám chín vườn Lịch được chia sẻ với đàn anh vũ. Mà không chia thì bầy chim cũng chỉ lấy đủ số mỗi ngày. Anh vũ ăn trái chín biết khéo giữ chùm quả vẹn dáng đến cả chiếc lá bao cuống cũng không gãy rụng. Ăn trái nào hết trái ấy, anh vũ làm đẹp rừng trám, làm đẹp lòng người.
Bà cời bếp.Than củi nghiến đỏ như thép cục nung tách tóe tàn sao. Chuỗi tràng hạt thạch lựu mang ảnh Đức Mẹ cẩn trong hình oval bạch kim, chao qua, lắc lại trên mặt yếm sồi của bà cũng sáng lên lên theo nhịp. Hương trầu cau quyện vôi nồng thơm cay. Vu vơ. Vỗ tôi ngồi yên, bà lần ra chum nước mưa chuyên thêm. Phải đun ấm nữa mới đầy chiếc phích lồng vỏ tăm nan tre.
Ke…ét ! Ke..ét…ke..ét…két… bầy anh vũ bỗng thất thanh bay toáng. Thảng thốt, rám rụng rào rào như ném sỏi. Quầng âm xao xác. Bung biêng. Dằn vội chén trà ngây khói xuống chiếu, Nội nghiêng nghe. Vẳng tiếng chân rén bước rẽ xạc xào cỏ lau. Nội ra ngoài hiên phấp phỏng hướng vào bóng đêm còn lừng chừng trong ngóc ngách khu vườn. Bà chùng xuống, thở đuột:
- Lại bọn giăng bẫy…
Con chó thiến Ky Lu gẫy một răng nanh giằng dây xích ư ử chồm chồm hòng bứt thoát khỏi góc hè. Bản năng hiếu chiến của nó bị chuỗi âm thanh khác thường kích thích. Bà chặc lưỡi, Ky Lu vội nằm bẹp hối lỗi. Lặng quay vào, Nội nâng chén trà mãi lên môi.
Bà thở dài thú nhận bất lực. Xe điếu trúc đon đót xoáy rít. Khói thuốc lào cay ngái quẩn mái gồi.Con bướm lạc nhao vào ngọn đèn, cháy rụi một bên cánh. Mùi gì giống chấu chấu nướng bỗng gây khét. Bà dồn Nội:
- Ông không nghĩ ra cách gì ngăn chúng lại à?
Cuối vườn bầy anh vũ một lần nữa nháo nhác kêu than chói nhức. Hẳn là tiếng con chim bị dính nhựa bẫy giữ chặt hai cánh đang cố giãy thoát. Trám lại rụng rào rào. Bà nhứ định thả Ky Lu, Nội lắc đầu, làm hiệu chờ thêm chút. Thả Ky Lu bây giờ, thằng con nhà Sử đang bắt chim trên ngọn trám giật mình rơi xuống thì tính sao ?
Ông Đẹ, thương binh Điện Biên bên xóm mách quấn dây kẽm gai hoặc mỡ bôi trơn máy nổ bơm nước phết vào thân cây. Nội lắc đầu, nhà Sửu Soi chín miệng ăn. Bồ rỗng từ cuối tháng 7. Bẫy được con anh vũ dấm dúi xuống bến Trung Hà bán vội cũng được yến sắn tươi. Triệt đường sống người khác sao đành.
Nội chiêu nốt chén trà rồi cạn thêm chén nữa. Nhẩn nha. Đợi phía cuối vườn, những vòm trám thôi rung, những vòng lượn của bầy anh vũ không còn tiếng cánh vỗ ép không khí lật phật, Nội mới gật đầu.
Bắn vụt mũi tên đen, Ky Lu hòa mình vào bóng tối. Triền cỏ lau soàn soạt rẽ khóm níu bước người nào đó chạy tướt mướt…
Nép bên bà, tôi rùng mình hình dung hàm răng nanh trắng ởn, nhoáng rớt rãi và chiếc lưỡi thè le như phiến máu của Ky Lu sắp sửa táp vào cặp mông nhấp nhô của tên trộm.
Mông tôi bỗng nhức buốt.
Ky Lu băng chưa qua vồng cây café xùm xòa bỗng ư ử quành lại. Nhảy vọt qua từng hàng chè một, mõm nó ngoạm vật gì đó cựa quậy… Con chó khuỵu trước Nội mắt ánh lên hân hoan tâng công, nhả con anh vũ vừa mới đủ lông cánh xây xước. Lảo đảo con chim gượng đứng dậy, nhưng lại ngã rụi. Đôi cánh xanh rêu ánh biếc bết những nhựa sung, nhựa mít khiến nó không thể giữ thăng bằng. Cái mỏ khoằm bổ bổ xuống đất…cọc cọc.
Tên trộm sợ hãi bỏ lại hiện vật chạy thoát thân hay sểnh tay buột thành quả?! Tôi reo lên định lao vào vồ con chim. Nội ngăn lại. Nội sợ con chim bị thương hoặc gãy xương ở đâu đó, không khéo tôi sẽ khiến nó đau trầm trọng hơn.
Bà vào nhà lấy chai dầu hỏa rót lưng chiếc bát mẻ. Nội thấm túm bông tiêm đẫm dầu, lau chi li từng chiếc lông cánh cho anh vũ.
Sáng banh thì chiếc lông cánh cuối cùng của anh vũ tẩy hết nhựa. Nhốt tạm nó vào chiếc lồng sáo chim gáy cũ. Anh vũ lờ đờ, rụt cổ, đứng trên khúc rễ sim làm thanh xà giữa lồng như cái xác nhồi… Hễ ai đến gần là nó xù lông, nghiêng nghiêng cái đầu xám hồng, mắt quắc lừa miếng ngoặm cho một nhát.Trầy da.
Không hiểu sao, khi ni cô giơ ngón tay giả làm củ lạc dứ dứ trước cái mỏ khoằm sắc lẻm thì anh vũ chỉ lừ khừ vẻ tội nghiệp. Một lát đắn đo, anh vũ dụi đầu vào ngón tay ni cô khẹc khẹc tin cậy.
- Nó có duyên với con bé!
Nội phảng qua nụ cười.Thế là hộ khẩu anh vũ về chùa Cao ở cùng ni cô.
Tên trộm bẫy chim, chúng tôi thi thoảng vẫn gặp trên đường đi học.Đầu hắn lộ những đồng xu sẹo da nâu bóng.Tóc mọc lơ thơ như túm mạ già. Cánh mũi bè bè như bị đạp dập. Quần công an vàng nghệ, xén ngang gối. Áo ba lỗ cổ vuông. Con quạ đầu xám, chân buộc xích bạc quấn quanh cổ đen ngẳng. Con chim lấc láo nhìn ngang ngó dọc, hét the thé oai vệ:
- Đồ chuột chết! Tránh xa cái nồi ấy ra.
Hắn tiến đến beo tai tôi, dằn giọng:
- Mày thả con Ky Lu chẳng lần nào đúng lúc. Tao cho nó ngắm mông suốt…
Gườm gườm, nhìn ni cô hắn chùng giọng:
- Con vẹt mày nuôi chỉ toi công. Vẹt phải nuôi từ lúc bóc trứng mới nói được. Chùa nhà mày mà dạy nó nói được thì tao làm con chó gâu gâu!
Nhả xong câu cuối, hắn nhe hàm răng vàng nhờ bựa. Ni cô sợ sệt lùi lại nấp sau lưng tôi. Tôi căm tức buột ra:
- Sư Trụ Trì bác nó giỏi võ chạy trên mặt nước không chìm đấy….
Hắn cười khẩy.
- Nhóc, mượn hổ dọa dê à…. Mày nét thế này, đi tập tu hay tập hú….
Con quạ chuyền sang vai bên của chủ.
- Đồ chuột chết! Tránh xa cái nồi ấy ra…
6. Trang trại Lịch Sơn triệt diệt cây sơn nhựa. Trong tay từng chi tiền ngàn bạc vạn mà giờ đồng dầu, đồng muối bà tọ tẹo trông vào việc chữa đồng hồ của Nội. Nải chuối, buồng cau, con gà, trái trứng bán chợ chiều được dăm bạc vụn.Vậy nên khi có khách vãng lai đến thu mua nhựa trám, bà sốt mến nhận lời ngay, dù chưa có một gram nhựa trong nhà. Nội chẹp miệng:
- Tuổi bà làm sao xông pha được nữa…
- Ông em ạ, giá yến nhựa trám thượng đẳng không tày nửa cân sơn mặt dầu nhưng cũng góp thêm khoản thu tôm tép vào chiếc niêu đất ủ bếp trấu...
Cắt vỏ trám lấy nhựa vốn chỉ dành cho lực điền. Vậy mà bà tuổi sáu mươi lẻ vẫn phải bật dậy từ mờ đất. Bao tay vải đến khuỷu, tạp dề vải tráng cao-su, hài đen. Bà xách chiếc đèn chai, cài con dao gáy bằng đầu sống vào giá đeo nơi thắt lưng, băng qua khu vườn ngái sương, giơ cao cây đèn thêm rộng quầng sáng. Đám lá chè, lá café, lá chuối rùng rình nhường lối cho bà… Những khóm bạch môn, hoa sói, cây ngâu cũng không nỡ ríu chân cản bước…
Móc đèn treo lên chiếc đinh tre cắm chốt vào thân cây, bà rút con dao gại gại mũi vào vết chai lòng tay chuẩn bị trích nạo vỏ trám. Cây càng già thì vỏ trám càng dày, càng cứng. Lớp biểu bì phía ngoài chết hóa khô sành. Bàn tay bà không đủ sức ấn mũi dao mà phải cậy đến chiếc dùi gỗ nghiến túc tắc gõ từng nhát. Gặp cây trám trẻ, vỏ mềm thì chỉ cần tay trái nắm chuôi, hướng lên ngọn, úp lưỡi dọc thân, dùng ngón cái ấn mũi dao khậc vào mà[2] nhựa hình chữ V, lẩy một phiến mỏng bên phải, rồi lẩy tiếp phiến mỏng bên trái. Tỉ mẩn bà cạo lớp nhựa đóng váng. Khồn khột. Dòng nhựa trám sánh quánh như mỡ nước từ mao mạch rỉ theo hai cạnh mà nhựa gặp nhau dưới đáy chữ V, nhỏ giọt xuống lòng chiếc vỏ trai đại cắm phía dưới...
Chẳng hiểu là mảy vỏ bắn vào hay nhựa trám cay mắt hoặc tuổi già dậy sớm, nước mắt bà cứ tự hoen bên khóe. Góc khăn vấn giọt vừa chấm khóe mắt phút trước phút sau lại chấm. Bao nhiêu năm dòng nhựa trám ròng ứa nơi vết cắt hình mũi tên và vệt nước mắt hoen nơi gò má hằn vết nhăn của bà cứ khiến tôi đau đâu đó trong lòng. Lặng, tôi buột gọi bà ơi! Vẻ uy nghi ở bà những buổi chia trám giữa sân trang trại tản mác đâu rồi. Trước tôi chỉ còn người bà teo tóp gắng gỏi trong mỏi nhọc.
Có cây trám càng già càng cho nhiều nhựa. Nhưng cũng có cây trám tơ hơ hớ, phổng phao, vỏ như giấy bìa, chích cả tháng chẳng đầy bơ sữa bò.Trám cũng giống cây sơn phải chích vỏ trước bình minh để nhựa kịp chảy đủ lượng trước khi bị vón cứng bịt kín mao mạch.
Sinh chất chảy từ da thịt cây mới đầu trong veo màu mật ong non, sau thấm gió mới quánh óng tựa hổ phách thơm cay sẽ được bán xuôi sông Hồng để người ta làm nhang vòng, làm mực nho viết sớ. Tôi hào hứng với thứ máu cây thơm và diệu kỳ. Chỉ cần có chút nhựa trám khô bên người là bầy muỗi đói bạt vía không dám vo ve.
Không ngày nào nhựa trám không dính vào thịt da hay áo quần chúng tôi. Lần đầu bị nhựa bám ngón tay, ni cô hốt hoảng rửa xà-phòng cả buổi cũng không sạch, khóc ti tỉ, lấy dao cạo trầy da mà mảng nhựa trám vẫn lì lợm đen xì. Lăm lăm bà giơ sào tre ngoắc túm lá trám non. Bà vò nát lá xát mạnh vào những chấm nhựa trên tay ni cô. Thần diệu làm sao, dăm phút mảng nhựa bám biến mất, trả lại bàn tay trắng nến…
Sau mỗi buổi cắt nhựa trám bà còng hơn một chút. Tròng mắt nhuốm hơi sương thêm phai bạc. Con dao chích vỏ cây rơi buột dưới chân. Nắm bàn tay ánh vết cốt trầu tôi không hiểu vì sao đầu ngón cứ rung rung giật giật…
Chiều đông gió loàng qua trảng cỏ may khô, Nội mang bị nhựa trám vụn ra góc vườn. Nhựa trám vụn lẫn vẩn rác, đất cát không thể bán cho hàng làm nhang thì Nội đã có cách để công sức bà không sa phí. Thả nhựa trám trong chiếc thau đồng nổi lửa, úp chiếc ống khói vỏ hộp sữa Nestle. Trên ống khói chắn chiếc nồi đất. Nhựa trám phừng phực như hắc ín, lưỡi lửa đen lem lém cuộn mình trong lòng nồi đất như bầy dơi ma đập cánh. Thế là muội khói nhựa trám được giữ lại. Mỗi lần lửa bùng lên là lửa lại phết vào lòng nồi đất một lớp muội. Nhựa trám cháy tàn thì chiếc nồi đất lùm lùm như tổ ong lặc lè những muội.
Nội khéo léo gỡ muội khói vào chiếc thâu[3] nhỏ. Một hơi thở mạnh, hay cơn gió mồ côi bất cẩn cũng đủ thổi li ti muội khói bùng đám mây đen. Miếng da trâu sấy gác bếp lùi tro nóng, cạo trắng hầm cả buổi nồi gang, giờ đã hóa thứ keo lỏng, trong trong bùng nhùng như thạch ủng. Đổ keo ấy vào thâu sẵn muội khói nhựa trám. Nội nhẹ tay khuấy, nhịp đầu chầm chậm sau nhanh dần, nhanh dần như người ta ngậy[4] sơn ta sơn đồ gỗ. Lọn tóc bạc bết trên vầng trán cao, thanh. Nội chớp chớp cho mồ hôi khỏi tràn xuống mắt. Hỗn hợp muội khói nhựa trám và keo da trâu đông đặc theo tốc độ nhịp tay Nội đưa. Thứ sột sệt trong thâu giờ đen ánh, dẻo như kẹo kéo, quánh như nhựa đường.
Khuôn đúc mực chia ô mang ra đặt trên tấm ván sung. Mỗi ô tương tự thanh bánh đậu xanh, đục chìm xuống phiến gỗ mít. Dùng muôi gỗ dàn đều hỗn hợp đen nhưng nhức kia, Nội nén chặt vào khuôn. Với chiếc búa gỗ, Nội lần lượt đánh hai đầu khuôn lắc vữa mực dồn vào mọi góc. Vữa mực còn thừa, Nội dùng chiếc bay nhỏ niêm nót vã lên mặt từng thỏi mực lồi luống mạ. Đợi mươi phút ráo nước đặt ván đóng mặt khuôn, đặt ba viên gạch chèn. Qua 12 tiếng, nhấc ván mặt, hong mực trong hiên nhà mươi ngày chờ khô dần. Dỡ khuôn, cầm thanh mực gõ vào nhau nghe tiếng đục trầm là mực đã khô. Từng thanh được bọc giấy bản, cất vào chum sành, dưới đáy để vôi cục. Đấy chính là những thanh mực đen, khi dùng chỉ cần đổ vào chiếc đĩa sâu lòng mài nhẩn nha với nước lã. Cha Xứ và Trụ Trì được Nội biếu mực ấy để chép kinh bổn hứng khởi lắm.
Ni cô quỳ bên hiên chùa mài mực trong hương thơm hoa mộc. Chẳng biết làm sao mực vương má màu táo chín như ria mèo. Chiếc mo cau rơi bộp. Nhịp chuông thỉnh kinh boong boong ngấp ngứ mấy dải nương chè. Trụ Trì trong Thượng điện vẫn dắng ra nhắc cháu gái nhớ thêm chút nước trà xanh đặc vào nghiên ngọc cho bền màu. Con anh vũ lù khù khục khặc mỏ: Adi đà Phật! Adi đà Phật!
Còn tiếp
[1] Vanh: Đơn vị đo dân gian bằng gang tay, để tính chu vi thân cây,tương đương 20cm.
[2] Mà: vết trích ( cắt) trên vỏ các loại cây lấy nhựa, như cao-su, sơn, trám, thông…
[3] Thâu: dụng cụ đan bằng tre, quét nhựa sơn, khối trụ, nhiều kích cỡ để đựng nhựa sơn.
[4] Ngậy: Đảo ( đánh) nhựa sơn liên tục trong nhiều giờ để nhựa sơn chuyển hóa, dùng để sơn đồ gỗ hoặc làm tranh sơn mài.
Ảnh: Sưu tầm