Ngàn dâu xanh ngắt một màu*
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai...
Lời thơ người xưa như định riêng cho dì Tôi. Khúc giao tình của cô gái tằm tang và chàng trai chân sào bè gỗ, một quan anh** hát Ghẹo làng bên gói trọn một mùa trăng hạ chí. Lệ hát nước nghĩa cấm các quan anh, quan chị lấy nhau, một lời nguyền bất định như sông kia ngăn cách hai làng.
Mùa Xuân lễ hội hát Ghẹo diễn trên bãi dâu vừa đốn.
Phù sa của dòng sông xanh, nâu nhạt đang ủ ấm chân những gốc dâu mang mầm mong mưa Xuân. Dâu sẽ tràn ngút triền bãi. Tằm ăn rỗi bừng nức để căng lộng lụa phơi sáng trắng suốt triền đê như một dòng sông lụa chảy bên trời.
Em gái bà ngoại lấy chồng làng bên chỉ được mình dì. Hơn Tôi gần chục tuổi, dì học trung cấp kế toán nông nghiệp phải bỏ ngang về giữ nghề tằm tang của tổ tiên trước lời cầu khẩn khi ông đau ốm. Nửa mẫu dâu và ba mươi nong tằm một tay dì tần tảo. Mắt phượng, gót gâu, áo lụa, quần ống xéo, gái quê giữ mốt quanh năm, quá hăm ba chẳng chịu lấy chồng...Dì chịu tiếng đành hanh.
Mùa hè ấy ông trẻ mất, ái ngại gia cảnh mẹ góa con côi, mẹ bắt Tôi đến ở nhà dì cho có hơi đàn ông! Đàn ông là một thằng nhóc mười ba tuổi vác theo đống sách chuẩn bị ôn thi vào cấp II, ban đêm chỉ dám hé cửa tè ở gốc chuối đầu hè.
Theo chân dì ra bãi xới cỏ, bón phân tằm cho dâu, Tôi đã thấy ánh mắt phượng của dì hoang hoải mỗi khi gặp bè gỗ chở lá gồi lừ đừ trôi giữa dòng lượn theo vòng cung bờ dâu. Chống sào, người trai nhoáng nâu, ngực vồng múi, quấn khăn thủ rìu...
Người trai quăng sào nhảy tòm, bắt mấy nhịp sải bơi là chạm bờ. Chạy băng xuống mép nước, trên tay mớ cỏ ấu bết đất, dì lúc cúi mặt, lúc ngẩng cao hất mái tóc bay lộng....Người trai như có sợi dây buộc vào dì, cứ lộn đi lộn lại vòng quanh. Dấu chân cày tung cát ướt. Chẳng biết họ nói những chuyện gì...bao nhiêu âm thanh gió đã cuốn đi...
Tuần sau, Tôi đang ê a học thì nghe con vện sủa. Thì ra quan anh đến nhà nhận làm công tằm tang. Hồi đầu, bà vui lắm, vì mướn được trai lực điền. Nhưng khi nhận ra người trai là quan anh hát đối với dì mỗi mùa Ghẹo, bà liền quay ngoắt, hễ thấy người ta trước mặt là cầm chổi cọ khua sàn sạt...
Quan anh nhẫn nhịn, ở lánh ra đầu hồi nhà tằm.
Trần lưng, quần lính xén gối, quan anh quét mạng nhện, dặm dọi lại mái gồi tốc dột, tẩy vôi nền nhà, lau dấm thanh nong nia rổ sảo. Bụi bẩn không che lấp được nụ cười hiền, lam lũ. Bữa trưa ngồi sau, đứng dậy trước. Tối nhọ mặt quan anh mới phiền dì đèo xe đạp đưa ra bến sông về nhà....
Người dì đóc đách bỗng thay tính đổi nết. Lúc thì đăm chiêu, lúc véo von.
Một nong tằm là năm nong kén,
Một nong kén là chín nén tơ....
Hôm nay mưa hay là sẽ nắng đây? Vừa nhao khỏi giường dì đã lo nóng lạnh.
Nắng hay mưa thì tằm vẫn ăn dâu nhả tơ dệt kén.
Người đẹp vì lụa, nhưng không phải ai mặc lụa cũng đẹp. Tằm tang giúp người ta mau thăng phú hào, nhưng nào mấy nông phu dám chọn làm nghề. Cần cù thương khó, ruộng nương rộng dài chưa đủ mà còn phải thấu đáo luân hồi kiếp tằm phận dâu...Chữ ăn cơm đứng kia cũng chưa gói hết nỗi nghề nhọc nhằn hơn nuôi con mọn.
Nuôi tằm trước hết lo dâu. Dâu không mấy đỏng đảnh, đất miễn đủ mùn, đủ ẩm, giữ nhiệt, tầng canh tác đủ dầy không chua, không mặn quá, nước ngầm thấp là mầm chồi ấm gốc năm sáu nhánh tua tủa gọi nhau lớn. Cành dâu nâu nhạt mềm cong mang mầm nách, mầm đỉnh nghiêng lên trời đeo chuỗi lá hình tim điểm răng cưa quanh mép xanh màu cốm. Nương dâu dù đứng gió thì vẫn cứ tự đu đưa, tự reo vui với nhau. Gió đến bất chợt thì ngã rạp mình nhất loạt và cũng nhất loạt hồi thân nghênh gió tạo điệp khúc sóng xanh, cơn nối cơn vô hồi...
Trước Xuân cây dâu già chịu nạn đốn lìa thân sát gốc, để lứa sau tươi tốt.
Thân cây dâu khô làm củi, cắm gièo đỗ, buộc hàng rào cho mồng tơi leo. Và roi dâu vung vun vút đuổi ma, trù tà cho những đứa trẻ hay khóc dạ đề.
Cây dâu, để ngoài đồi bãi vặt lá nuôi tằm, đốn đi đốn lại thì dâu vẫn đành phận dâu trắng, nhưng cũng cây dâu ấy đem trồng vườn thì cao vống hơn cả mái nhà, trái chín tím não nuột màu nho. Lá nõn của cây dâu lão nấu canh tôm nõn sẽ sâu thêm giấc ngủ và long lanh ánh mắt, trái chín thì làm xi-rô tím mát những trưa nồng, vang dâu đằm môi ngất ngây thêm với bít-tết thịt đỏ...Dâu tía thọ đến nửa trăm năm, được chủ vườn cưng nựng, nhưng cũng cay cực gò lưng cúi đầu vì lũ trẻ ranh suốt ngày leo trèo, bẻ cánh hái trái. Khi cỗi già, sâu đục thì đổ xẹp nằm bên hàng rào gai mây mà u sầu...
Là cây dâu, làm sao tránh phen thiên hạ chỉ tang mạ hòe. Dẫu dâu trắng hay là dâu tía thì cũng đành im giơ đầu chịu báng chịu tiếng cho yên phận dâu với tằm.
Chẳng biết bắt đầu từ khúc nhôi nao của luân hồi-tằm-nhộng-ngài-tằm để nên óng ả tơ vàng, cũng như phận người lúc sáng lúc tối trong cuộc đời dâu bể vô thường.
Những chiếc kệ nhiều tầng ghép từ thân tre đực ngâm khô sắt đỡ mấy chục chiếc nong cạp níu buộc dây mây, đan nguyên cật tre già lên nước bóng như sừng, lực điền có thể nằm khoanh. Mỗi lần rắc dâu cho tằm, thay rác thì phải hai sức trai hạ xuống nâng lên, chiếc kệ lại được dịp kèn kẹt y như những hôm trở trời.
Vậy mà chỉ một quan anh gồng mình đã nhấc bổng chiếc nong lặc lè tằm chín đặt thịch xuống nền đất nhồi vôi. Sức bền chân sào dư dả làm chân phụ chăn tằm.
Mùa tằm rộ.
Quan anh phải ở lại qua đêm trực việc.
Dì sắm thêm bộ chăn màn chiếu mới ôm xuống nhà tằm. Bị ma lực nào đó dẫn dụ, Tôi lén theo dì. Ôi, dì đã để quan anh nắm tay rõ lâu trong bóng sáng vàng ảo ngọn đèn Hoa Kỳ...
Bà cũng thưa khua chổi cọ trước mặt người làm.
Khăn buộc ngang trán, lưng áo lụa lẳn mồ hôi, dì chuẩn bị sẵn chiếc nong khử dấm thanh, lá dâu thái dối lót đáy một lượt, nghênh chờ. Hai bàn tay đàn ông sần khúc như rễ cây bon sai chuyên từng vốc tằm ríu vào nhau sang nong, mà không một con bị nén thân đến ói xanh.
Nhìn động tác sang tằm của quan anh, má dì cứ hồng ngân ngân.
Lũ tằm căng mọng tơ sắp chín vổng lưng nổi đốt bò lổm ngổm, ngọ ngoạy huơ cái đầu có hàm răng đen đánh hơi lá dâu tươi thơm ngái. Mắt dì sáng lên ngắm nong tằm sôi rào rào rúc vào ngoặm lấy được thức ăn, nuốt thun thút. Dì đưa tay ra sau làm hiệu, quan anh biết ý bê mẹt lá dâu lại gần. Từng nắm lá dâu được dì thả xuống cùng những âu yếm, cưng nựng. Người đàn ông giúp việc lom khom chống gối ngắm tằm ăn rỗi, sắc diện nâu rám lấm tấm mồ hôi, sáng nụ cười thênh thênh.
Dường như quan anh sinh ra là để nghe ngóng tuân theo mỗi động thái của dì. Mới ngước lên, thì quan anh đã biết là phải xoay chiếc nong để dì rắc dâu khỏi quá tầm. Một cái gật, quan anh đã nâng chiếc nong vừa chăm lên kệ đỡ hoặc nghiêng dồn xơ lá và phân tằm vào chiếc mủng quét nhựa sơn mang ra hố rắc vôi cuối vuờn.
Có lần quan chị hát buông:
Miếng trầu để đĩa bưng ra,
Xin anh nhận lấy để mà thở than***
Giọng dì mềm dịu, nóng hổi như tơ vừa mới lên guồng, như lá thư thăm dò gửi cho một chờ đợi khắc khoải nào đó đã cổ xưa lẩn vào mây trắng mùa Xuân trung du. Tích tắc, quan anh ngừng tay nhìn vào mắt dì mà hát rằng:
Miếng trầu ăn nặng bằng chì,
Ăn thì ăn vậy biết lấy gì trả ơn...
Âm sắc của quan anh thô mộc nhưng mát lành như phù sa ủ gốc dâu. Bầy tằm hình như lăng lắng nghe, quên cả ăn rỗi...
Dì lui khỏi việc bếp núc khi phát hiện ra quan anh thích thú nấu cơm, xào rau, kho kho rán rán... Thì ra chân sào lênh đênh, muốn có sức ai cũng phải giỏi nấu ăn cho mình. Xoong, nồi ám nhọ khói, đóng dày mỡ cháy bỗng chói sáng, mâm đồng có thể soi gương, bát đĩa sạch kin kít khi miết tay. Bếp đun củi dâu mà nền gạch son thắm chẳng chút vẩn vương tro bụi...
Ngồi trên hè sưởi nắng, thấy quan anh lui cui làm bếp, bà thở dài: Quân tử viễn bào trù****.
Dì liền cãi, chỉ có đàn ông mới được phong làm vua bếp, chứ đàn bà có ai đâu bầm! Đàn ông biết làm bếp là nhất hạng yêu vợ con.
Buồng quan anh ở phía đầu nhà tằm, cửa sổ đối diện với cửa sổ gian đầu hồi của dì ở nhà trên. Cả ngày họ chỉ nói với nhau được chục câu trống không: Nấu cơm đi! Tằm kêu dâu rồi! Nghỉ tay chút...Hôm nay nóng đấy...
Một lứa tằm bắt đầu từ những chiếc kén giống thuôn như trái nhót chắc tay, vàng óng ả nổi bồng sợi tơ mặt, lắc nhẹ nghe âm thanh lộp bộp mơ hồ là biết tằm đã dệt hết tơ lột xác để thành nhộng. Mình nhộng mập, thon tròn hai đầu, vỏ ki-tin óng màu cánh dán. Nhộng nằm ngủ trong kén chừng hơn chục ngày cho đến hôm trút bỏ xác nhộng biến thành con ngài diêm dúa y con bướm.
Kén giống đeo nguyên trên né lá chuối khô, rơm khô hoặc cuộn bòng bong khô quanh sào tre quây kín màn. Những con ngài, mà thực chất là bướm lần lượt cắn một đầu kén chui ra. Ngài cái suốt buổi loay hoay ngoảnh nhìn cái bụng khệ nệ của mình dưới bốn chiếc cánh hai ngắn hai dài, toàn thân phủ một lớp lông phấn óng ánh, xơ lá dâu chạm khẽ là bụi lông phấn tung lên trắng mờ. Ngài đực thì bé quắt, thẫm lông phấn tím nhạt, nháo nhác bay trong màn tìm lối ra hay là tìm bạn tình chẳng rõ...
Đợi nửa ngày cho ngài khô cánh, cứng chân, dì lấy giấy bản lót xuống chiếu, xếp khoảng hai mươi con ngài, một phần ba là đực, lấy chiếc lồng bát úp lại, che kín ánh sáng. Tự những con ngài lần lượt ghép đôi. Ngài cái đẻ ra những hạt trứng li ti như kim sa trên giấy bản. Số trứng trên mỗi tờ đủ lượng nuôi một nong tằm. Ngài đẻ xong lông phấn tự trôi khỏi mình, cánh xơ xác cụp xuống, con đực tìm đến con cái chíu đầu vào nhau rồi lịm đi hóa thành xác vật vờ...Dì lượm xác ngài chôn dưới gốc hoa nhài.
Lúc vui thuận miệng dì kể rằng khi xưa công chúa Thiều Hoa gọi con bướm tằm là ngài, gọi thứ vải dệt từ tơ tằm là lụa. Là con gái vua Hùng hiền thục, nhưng Nàng không chịu lấy chồng. Công Chúa biết tiếng chim và bướm. Nhờ một lần nói chuyện với bướm nâu nên Nàng mới biết bướm nâu chỉ ăn một thứ lá dâu để đẻ ra trứng, rồi trứng nở thành sâu, nhả sợi tơ vàng...
Mơ màng, Tôi bỗng được gặp công chúa Thiều Hoa thấp thoáng trong bóng dáng và nét mặt dì.
Trứng tằm trên giấy bản được dì cất nơi kín gió, bình hòa nóng lạnh. Và cũng lặp lại chu kỳ hơn mười ngày, sắc trứng tằm chuyển từ trắng sang đen. Gần hết tuần nữa thì vỏ trứng nứt chuồi ra những con tằm nhỏ đầu tăm đen đen lúc nhúc chuyển động. Lúc đó dì như nín thở soi đèn xem tằm có đều con. Quan anh giúp việc lựa những chiếc lá dâu mỡ mềm, tươi nhựa, dùng dao bài thái nhỏ như sợi thuốc lào rồi rắc nhẹ lên mình tằm. Đợi tằm ăn hết thì tiếp ngay lượt khác. Mỗi ngày đêm, tằm ấu cần ăn chừng chục bận tùy theo lứa, theo tiết.
Tằm ăn vỡ bọng bốn ngày thì nằm yên thiếp ngủ, mình ngả vàng. Sang ngày thứ năm, da nhăn lại, thay lớp da đen sơ sinh, tằm ánh màu xanh nhạt và nhồm nhoằm ăn trở lại. Lá dâu quan anh thái không nhất thiết phải niêm nót nhỏ như sợi thuốc lào nữa.
Chu kỳ của tằm bốn ngày ăn, một ngày ngủ để lột da, rồi thức dậy ăn tiếp, cứ như thế được lặp lại bốn lần. Sau mỗi kỳ da tằm trở nên xanh hơn, bóng hơn, những chấm đen trên thân thêm thẫm, lông dần rụng hết. Lúc đó lá dâu cũng chỉ cần thái miếng.
Thức dậy lần thứ tư tằm ăn lần cuối, gọi là ăn rỗi, lá dâu không cần thái nữa Chúng chồm lên nhau theo mệnh lệnh bản năng sinh học là phải tích trữ thật nhiều năng lượng trong mấy ngày cuối, hàng nghìn hàm răng cùng lúc hăm hở nghiền thức ăn rào rào như mưa cơn, thậm chí cả cành nhỏ cũng xơi ngấu. Tằm phổng phao, chuyển động liên tục quanh nong phấn kích.
Giỏ dâu vừa hái lèn chặt tay, thả vài lần đã hết vèo, quan anh giúp việc chạy dâu thậm thịch, chân nọ ríu chân kia. Đứng ngáp, ngồi ngáp. Mắt dì quầng thâm, nhắc quan anh bắc nồi cháo cá giếc ăn đêm, sắc cả nước chè tươi thật đặc. Một ngày một đêm tằm phải ăn tới mười bốn mười lăm bữa. Chưa kể đến việc phải sang nong cho tằm vì ứ phân. Hết dâu ngoài bãi lại vòng lên nương dâu đồi. Không kịp thì sang hàng xóm vay. Ngày nắng thì không sao, nhưng mưa mới cập rập. Dâu mang về phải trải ra sàn nhà, hong, quạt hối hả cho khô mới dùng được. Dâu ướt hoặc dâu dập tằm ăn đều bị trướng bụng, chạy chữa cách gì cũng không thoát mất trắng. Nắng quá thì lo nóng, lại phải đổ nước giếng ướt nền, mở cửa sổ thông gió, kéo quạt lá cọ trên nóc nhà. Rét thì đậy chiếc nong khác lên, dùng chăn chiên đắp ủ giữ nhiệt.
Nuôi được lứa tằm cho mãn ý chẳng khác gieo một canh bạc.
Dì luôn nhắc Tôi xuống xem tằm xong nhớ khép cửa. Ong bắp cày, ong vò vẽ hoặc tò vò hở cơ là nhao vào quắp ngay một con tằm. Gà mái, ngan đực luôn rình rập lẻn vào. Lại cả thằn lắn, chuột, nhện cũng khoái khẩu món tằm. Mất một con tằm là mất một chiếc kén. Mất một chiếc kén là mất mấy vòng tơ. Chưa kể kiến vàng ham mùi tằm ngậy, hễ những chiếc bát loa kê chân cột kệ vơi nước là rồng rồng kéo nhau cắn cổ cả nong chỉ trong một đêm.
Tới bữa, dì bưng loa cơm đứng canh đầu này thì quan anh giúp việc canh đầu kia. Nếu hết dâu không kịp thả, lũ tằm sẽ dồn đống lên nhau, tự thân nhiệt sẽ khiến chúng chết ngạt. Tôi hay đứng ngắm tằm ăn dâu cùng với dì. Răng con tằm nào cũng đen sì, mở ra khép vào liên tục như máy xén cỏ, những phiến lá dâu từ từ biến mất qua hàm răng không điểm dừng.
Mỗi ngày tằm chuyển sắc trông thấy màu xanh lục thẫm, da căng bóng.
Cuối chu kỳ thứ tư tằm ghê răng giảm tốc độ ăn và chuyển dần từ màu xanh lục sang màu vàng đục rồi đỏ rực. Chúng trở nên lười nhác như lũ hải cẩu tí hon nằm ườn phơi nắng. Quanh nhà tằm, bướm bỗng nhiên bay rộn và chim chào mào lượn quanh đậu trên cành xoan véo von.
Dì và quan anh khênh những tấm phên tre có lỗ hổng vừa quân bài tú lơ khơ, đặt trên hè nhà tằm sáng nắng, lấy rơm hoặc dây bòng bong cài vào những ô trống đó. Tôi cũng xăm xái nhặt tằm đã chín bỏ vào né. Những con tằm co ro khẽ chuyển động trong lòng tay nhồn nhột. Cơ thể chúng đang rơi vào trạng thái lưỡng sinh, chúng sắp đi tè lần đầu và cũng là lần cuối đời tằm, trút bỏ hết những cặn bã suốt một đời chỉ lo ăn ngủ để chuẩn bị cho điều thiêng liêng của thân phận: vắt kiệt năng lượng dệt tơ vàng.
Dưới nắng không quá gắt, chút nước tằm tiết ra sẽ nhanh chóng bay hơi nên kén sẽ có màu vàng đỏ óng sáng; rủi, nếu tằm chín trúng ngày mưa, né để trong nhà thì kén không tươi màu, vì nước đái tằm sẽ làm kén loang lổ vết thâm. Và nữa, nếu không canh chừng để nắng chạy bóng chiếu thẳng vào thì úa tằm cũng không làm nên kén.
Háo hức, Tôi lén bỏ năm con tằm chín vào chiếc hộp gỗ đựng quân cá ngựa đồ chơi, giấu nóc hòm chân cao đựng gạo. Tôi cũng muốn có những chiếc kén tơ vàng làm “của riêng”.
Nong tằm nào cũng bị vài chục con tằm rụt, chúng trắng bệch ra, đờ đẫn dù bụng vẫn chứa đầy những tơ non, không chịu ăn, không chịu bò. Quan anh nhặt những con tằm ấy xiên tăm tre nướng trên than hồng thì thọt nháy Tôi nếm thử. Lần đầu tiên bị mời xiên tằm nướng luôn nhuôm tro than, Tôi vội lảng chỗ khác. Cười khẩy, quan anh lần lượt bỏ tọt từng con vào miệng nhai rau rảu.
Tôi mang chuyện đó khoe, thì dì nháy mắt: ngon lắm đấy, chỉ có kẻ ngốc mới không biết ăn tằm rụt thôi. Ông lang Trọc dưới phố huyện vẫn lên mua giá cao làm thuốc đấy. Không chịu mang tiếng ngốc, Tôi nướng tằm rụt, nhắm mắt ăn thử. Hương vị lạ lùng của tằm rụt nướng khó mà diễn đạt, một cảm giác kết trong miệng của thịt cá với vị củ quả nào đấy quen thuộc mà không gọi ra tên.
Sực nhớ con tằm rụt chết phủ màu trắng bẩn, cứng đanh, khẽ bẻ đã gãy, thân chứa thứ keo trong chưa kịp làm tơ, miệng đen, đôi mắt kép, các đốt thân nổi hằn, hai bên bụng có tám đôi chân giả ngắn ngủn và cái đuôi chẻ làm hai...thì Tôi hết ham hố tằm rụt.
Tằm chín lên đẫy né độ đôi ngày thì dì rục rịch nhờ quan anh mướn thêm người ươm tơ.
Chất lượng tơ mỹ mãn nếu như khoảng hai tuần tằm ươm hết kén và gác né. Muộn hơn, ngài cắn lỗ chui ra, kén lép xẹp chìm lỉm trong nồi nước nóng, không ươm được tơ, coi như trắng vụ.
Dỡ kén tằm khỏi né rồi, dì cùng quan anh nhặt sạch rác vụn vương từ rơm và lá bòng bong để riêng, cả chiếc nia hắt sáng một vầng quang. Nếu kén không sạch rác, khi ươm sợi tơ sẽ bị kẹt. Một bếp lò đắp đất sét trắng bờ sông ngùn ngụt lửa, nơi đầu nhà tằm, dưới bóng cây nhãn quan anh nhễ nhại thúc cho chiếc nồi gang bảy cân gạo đặt lên ba ông đầu rau đổ gần đầy nước.
Dì ngồi bên chốc chốc lại ướm tay vào nồi đợi nước nóng già. Hơi nước tỏa mờ, đôi đũa dài gắp một gắp kén khô thả vào nồi khoắng nhẹ theo chiều kim đồng hồ. Lát sau kén thấm nước nóng tơ giãn mềm ra, dì búng hai ngón tay xuống nhón lấy đầu sợi vê vê, buộc vào một cái cần đỡ bằng tre vót nhẵn có hai móc giữ sợi ở cạnh bếp lò. Bàn tay hồng bắt nhịp như múa, sợi tơ được kéo dài phát ra âm thanh xè xè từ bốn năm chiếc kén xoay tròn trong nồi nước, rồi được xếp lớp vào cái sàng để bên cạnh. Bền bỉ, sợi tơ chất cao dần thành ngọn rung rinh...Những con nhộng trong nồi còn loáng thoáng đoạn tơ dính liền với chấm đen nhỏ xíu, dấu tích của lần lột xác cuối cùng.
Tơ đầy sàng, được chuyền sang tay quan anh; và người đàn ông lấy hạt na hoặc đỗ đen đổ lên tơ cho khỏi rối lúc quay vào guồng, hết mỗi sàng tơ buộc mối gom tơ thành con, tháo khỏi guồng treo lên sào trúc ngang nhà tằm. Mỗi cuộn được gọi là một con tơ hoặc một nén tơ. Kén cho thứ tơ dai bền không gấp nếp, óng màu vàng mười cấu tạo từ protein tự nhiên không phải là chiếc kén to mà là kén mẩy, ít áo kén, hình dạng kích thước phải đồng nhất tăm tắp....
Sáng trăng trải chiếu hai hàng.****
Bên anh đọc sách bên nàng quay tơ
Những khi dì ngân nga thế, thì quan anh bỗng dừng tay việc, ngơ ngẩn gạt lọn tóc bết trên trán lắng nghe.
Hình như họ nhìn nhau bằng sự cảm nhận những âm thanh.
Ngừng tay quay tơi, dì dùng chiếc muôi tre đan thủng vớt những còn tằm vàng hươm có sọc ngang đen mờ, âu yếu gọi hai chú cháu.
- Ăn đi, tằm vừa thôi tơ, nóng sốt ngon ngon là...
Mọi công đoạn tằm tang chẳng có việc nào nhẹ nhàng như việc guồng tơ. Tôi thích được ngồi ghế cao, nhẩn nha guồng tơ. Và ngó những con nhộng tằm trồi lên, ngụp xuống trong nồi nước ươm tưởng món nhộng tằm rang mỡ lợn, bỏ lá chanh thái chỉ, hạt tiêu đen hoặc nhộng băm nhuyễn trộn trứng vịt, vỏ quýt khô giả món rươi của quan anh tung chiêu bữa tối, đã tràn nước miếng.
Bữa ăn, dì bỗng hóa thành bà chủ nhu mỳ, ngồi khép nép xới cơm, quán xuyến mọi sự. Hũ rượu dâu của người cha già đã khuất bỗng được dì nhớ đến. Một vài ngụm đã khiến quan anh cười phiêu diêu như là sắp vào cuộc hát. Hấm hứ, nhưng dì không nỡ ngăn quan anh ngừng rót rượu.
Hôm ấy, thế nào dì cũng cho quan anh nắm tay lâu lâu.
Những con tơ nối nhau treo sào trúc, gió thổi bềnh bồng như cuộn mây vàng sắp tan bay đi đâu đó ngoài xa. Khi sợi được hong khô thì dì sẽ xếp vào bao vải sợi bông thô, cất trong vại sành súc dấm gạo, chờ ngày mắc lên khung cửi.
Tơ sợi nhỏ nước một dệt thành lụa.
Tơ sợi to nước hai dệt thành nái.
Nhà dì có đôi khung cửi gỗ thị để dệt thứ tơ nước hai. Tơ nước một thì để dành chờ thương lái La Khê hay Võng La lên cất. Dù là thứ vải nái mặt nổi cục sần, nhuộm lá sòi nhưng khoác lên người thì êm lừ, nhẹ bỗng thông thênh như không mặc gì...
Ảnh: Đỗ Lâm Viên
Thuận tiết, kén mẩy mỡ màng, dì dệt mấy thước nái, mấy thước lụa định may cho Tôi và quan anh mỗi chú cháu một bộ quần áo. Chưa kịp đo người ướm vải cho quan anh thì mấy ông trùm bà trùm của hai làng nghe chuyện phong thanh. Các cụ khăn đóng áo dài, chống gậy đứng giữa sân mời bà ra gay gắt. Trưa hè nắng, bà mặc áo tơi ngồi giữa sân gạch để ép dì dứt khoát chuyện quan anh.
Dì đã phạm vào kỵ húy nghìn năm của hai làng kết nước nghĩa : quan anh, quan chị mãi mãi là gối đầu tay ấp trong câu hát chứ không bước đến tận cùng.
Các cụ lôi xềnh xệch quan anh ra ngõ. Người làm công trằn lại khép cánh cửa nhà tằm. Dì thất sắc ngồi trong phòng quan anh hồi lâu, bỗng giật mình chạy theo ra bến. Đò đã sang ngang giữa dòng....
Cuối hè Tôi được dì trao cho bộ quần áo mới. Ngắm Tôi xúng xính đi lại, dì lặng quay đi. Không lâu sau, Mẹ gọi Tôi về nhà đi học. Tôi bỗng nhớ đến hộp gỗ đựng cá ngựa vẫn còn đang cất giấu năm con tằm. Tằm làm kén, nhưng không kịp để ươm tơ. Ngài đã cắn kén chui ra và chết khô với những chùm trứng bám quanh thành hộp gỗ....Mùi nồng hăng như khói cay.
Quan anh quay lại chân sào rồi cuối mùa đông nhập lính.
Dâu trồng bãi soi nhiễm bệnh bạc thau, tằm chê cứ bò trên mặt lá rồi chết đói. Các làng nghề dệt lụa xứ Đông, xứ Đoài chuyển sang dệt gia công khăn mặt, màn tuyn, bít-tất cho quân đội. Lụa không được khuyến khích tiêu dùng. Dì bỏ tằm tang để trồng đay, trồng đậu. Giáo phường hát Ghẹo cũng chẳng còn ai gióng giả khăn xếp áo the.
Sau này, Tôi biết soie Pháp, silk Trung Hoa, silk Mỹ và Bombay, nhưng không có thức nào mát và mãn bằng khi mang trên người tấm áo lụa, chiếc quần nái do dì tần tảo may cho bằng tơ của những lứa tằm mà Tôi cũng góp công sức chăm nuôi. Lụa tơ tằm không nhàu, càng mặc cũ càng đẹp, càng cũ càng mềm óng ả...
Bây giờ dì có cửa hàng silk ở thành phố với cô con gái độc, tuổi sáu mươi hơn vẫn áo lụa đen, quấn ống xéo, tằm tang đã không còn đủ sức kham.
Mấy gian nhà tằm cùng vật dụng nong, kệ, guồng tơ và ngỡn dâu ngoài bãi cho người làng thuê lại. Chuyện tằm tang nghìn năm, chuyện người chăn tằm mà kể cũng đếm được ngần ấy thời gian. Quan anh một đi không hồi vãn, bao nhiêu đồn thổi, rằng giàu có đùm đuề vợ con đâu đó, rằng xanh cỏ chiến trận lâu rồi, rằng tay trắng ở vậy làm khách thương hồ bên Nam Vang...
Nhìn nắng dãi ngàn dâu bến cũ, Tôi nhớ câu nói của dì.
- Kiếp người, phận tằm có khác gì nhau. Mỗi một đổi thay là một lần lột xác nhưng cũng chỉ để trở lại chính mình...
Có những con người tốt đẹp, sống ở miền quê tốt đẹp với bao phong vị tốt đẹp vậy mà không thể sống cùng nhau chung mái nhà...bởi vì họ quá thiên lương...bởi làng quê quá hiền hòa...bởi rằng đã là như thế.
Giới luật là để tốt lành cho những con người nhưng đôi khi lại chẳng vì một hai số phận.
Một ngàn dâu đã chẳng vị một cây dâu. Và một nong tằm cũng sảy sa vài ba chiến kén...
N.T.T.K
-----------------------------------------------------
* Thơ Đặng Trần Côn- Đoàn Thị Điểm dịch
** Cách gọi người nam, người nữ hát Ghẹo
*** Lời ca hát Ghẹo.
***** Thơ Nguyễn Bính.