CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Nico-paris.com hỏi - GS Nguyễn Đăng Mạnh trả lời

DẠI KHÔN NGUYỄN KHẢI

Thứ ba ngày 28 tháng 8 năm 2012 12:09 PM

Nico-paris.com: Năm 2012, nhà giáo nhân dân, giáo sư, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh bước vào tuổi 83. Hơn 50 năm gắn bó với nghề dạy học và nghiên cứu-phê bình, ông đã từng là chủ biên của nhiều tập giáo trình đại học, nhiều bộ sách giáo khoa Ngữ văn, nhiều bài phê bình văn học sắc sảo và không ít công trình nghiên cứu công phu, có giá trị về các nhà văn Việt Nam hiện đại, đặc biệt là các nhà văn trong giai đoạn 1930-1975. Trên hành trình từ bục giảng đến văn đàn, ông đã để lại dấu ấn đáng nhớ trong tâm khảm của nhiều thế hệ học trò cũng như trong lòng độc giả.

Bạn đọc trong và ngoài nước đã có dịp làm quen với nhiều bài phê bình văn học đặc sắc của ông, nhưng những chuyện “bếp núc” xung quanh các bài phê bình ấy thì ông vẫn ủ kín trong lòng như những kỷ niệm khó quên.

Nico-paris.com hân hạnh được khai thác và trân trọng giới thiệu với bạn đọc những tâm sự của GS Nguyễn Đăng Mạnh qua những cuộc phỏng vấn xung quanh một số bài phê bình nổi tiếng của ông.


PHẦN VI  


Nico: Thưa GS, bị chê, chắc không mấy dễ chịu. Phản ứng của nhà văn khi "được" nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh chê thì thế nào ạ? Giáo sư có kỷ niệm nào tâm sự với bạn đọc không? 


G.S Nguyễn Đăng Mạnh: Ở đời, được khen, ai chả thích. Có kẻ, khen đúng thích đã đành, khen sai cũng phổng mũi. Vì thế mới sinh ra thói phỉnh nịnh. Nhiều thằng chỉ nhờ có tài phỉnh nịnh cấp trên mà bò lên được rất cao trên bậc thang hoạn lộ.

Trong đời sống văn học cũng thế. Kẻ ưa nịnh rất nhiều. Đó là những cây bút tầm thường, bất tài mà lại háo danh. Những nhà văn có tài thật sự, tuy không phải không thích được khen, nhưng phải khen đúng. Và bị chê có khi lại khoái hơn, nếu vạch đúng nhược điểm của mình. Vì sự nghiệp của họ đã được khẳng dịnh vững vàng, dù có chê cũng chẳng làm mất uy tín của họ được. Nên chê đúng, họ lại biết ơn, và rất sướng nữa, vì có được một người bạn tri ân tri kỷ. Ở đời, có được người hiểu mình thật sự, khó lắm! Bố mẹ, anh chị em ruột thịt chưa chắc đã hiểu. Đến bản thân mình cũng chưa chắc đã hiểu được mình. Vậy mà có người chỉ đọc văn mình, trò chuyện với mình mà hiểu được, quý vậy thay! Nhớ chuyện đôi bạn Bão Thúc Nha và Quản Di Ngô trong “Đông Chu liệt quốc”: Quản Trọng nghe Bão Thúc Nha nhận xét về mình đúng quá. Đúng cả ưu lẫn khuyết, thấy không có ai hiểu mình hơn thế, đã thốt lên: “Sinh ra ta là cha mẹ, biết ta thì chỉ có Bảo Thúc Nha mà thôi!”. Cho nên người xưa thường nói: “Kẻ sĩ chết vì người tri kỷ”.

Tôi rất thích văn Nguyễn Khải. Đọc báo cứ thấy có bài ký tên Nguyễn Khải là thế nào cũng phải đọc. Truyện Nguyễn Khải, như mọi người thấy đấy, chẳng có cốt truyện ly kỳ hấp dẫn gì, cũng chẳng có tình yêu, tình dục ướt át gì, thường chỉ những cuộc đối thoại về thời sự, về chính trị, rồi triết luận, chính luận hết trang này đến trang khác. Sự hấp dẫn của văn Nguyễn Khải, cứ nghĩ mà xem, té ra chỉ do anh dám nói sự thật và dám phát biểu những suy nghĩ riêng, tư tưởng riêng của mình. Thời bao cấp, làm được như vậy là giỏi, là bạo lắm đấy. Vì nói như Phùng Quán:

Người làm xiếc đi trên dây tht khó
Nhưng chưa khó bng nhà văn
Đi trn đi trên con đường chân tht
(Lời mẹ dặn)

Nhưng làm được như thế, phải thông minh và khôn khéo lắm. Một là phải có lắm nhận xét, lắm ý kiến sắc sảo, xuất phát từ cách nhìn riêng, từ kinh nghiệm riêng của mình; hai là phải biết rào đón che chắn thật kín kẽ mới có thể ném ra những ý kiến ấy một cách trót lọt được.

Nguyễn Khải vốn được xem là thông minh, một tay khôn ngoan có tiếng. Thơ thì nhất Chế Lan Viên, văn xuôi thì nhất Nguyễn Khải.

Hiểu thế, tôi định viết ngay một bài chân dung về Nguyễn Khải. Nhưng nghĩ lại thấy hiểu biết của mình về anh như vậy chẳng có gì mới. Thiên hạ đã thấy thế và viết thế về anh từ lâu rồi. Không có ý gì mới thì viết làm gì. Thành ra ý định viết về anh, tôi đành phải gác lại.

Năm 1986, đại hội Đảng lần thứ 6, phát động phong trào đổi mới đất nước. Tổng bí thư Đảng Nguyễn Văn Linh gặp các văn nghệ sĩ, tuyên bố “cởi trói” và kêu gọi nói thẳng nói thật, “không bẻ cong ngòi bút”, “hãy tự cứu lấy mình”. Trần Độ và Nguyễn Văn Hạnh lên làm chánh phó ban văn hóa văn nghệ trung ương. Các anh muốn cải tổ hẳn nhân sự Hội nhà văn, thay ban chấp hành cũ mà các anh thấy là bảo thủ bằng một lực lượng mới. Các anh gọi Nguyễn Khải và Nguyên Ngọc ra chuẩn bị đại hội Hội nhà văn lần thứ tư và dự kiến Khải và Ngọc sẽ làm chánh phó Tổng thư ký mới của Hội nhà văn.

Đối với Nguyễn Khải, té ra chức quyền, danh lợi cũng hấp dẫn đáo để. Từ Sài Gòn anh bay ra Hà Nội, hăng hái triệu tập và trực tiếp điều khiển nhiều cuộc họp chuẩn bị cho đại hội Hội nhà văn lần thứ tư. Gặp tôi trong một cuộc họp, anh phẩy tay: “Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Chế Lan Viên, hãy phế cả đi!”. Và làm như đã nắm chắc trong tay chức Tổng thư ký Hội nhà văn, anh cắt đặt: “Về lý luận phê bình thì anh phụ trách cho tôi”. Anh còn dặn dò cẩn thận: “Đổi mới nhưng phải khôn khéo. Chính trị ghê gớm lắm, không đùa được đâu. Nếu cần phải quỳ xuống lạy, cũng phải quỳ. Đừng như Trần Độ cứ ỉa ra đấy cho người ta phải dọn”.

Nhưng chỉ ít ngày sau, tình thế đảo ngược. Trần Độ mất chức, Hà Xuân Trường, Nguyễn Đình Thi trở lại điều khiển việc chuẩn bị đại hội Hội nhà văn. Nguyên Ngọc phải rời khỏi chức Tổng biên tập báo Văn nghệ và bị phê phán dữ dội. Nguyễn Khải sợ quá, vội lặn biến vào Nam, thể hiện đúng câu thơ Xuân Sách: “Muốn làm cách mạng nhưng lại nhát”.

Nhớ lại những lúc tưởng bở, những lúc huênh hoang bốc đồng như thế, chắc Nguyễn Khải thấy dại mặt lắm, xấu hổ lắm, xấu hổ chết đi được!

À ra thế! Tôi khoái chí: thế là mình đã có ý mới rồi. Viết được rồi: Nguyễn Khải không chỉ có khôn ngoan đâu, cũng dại dột như ai vậy thôi. Dại đến nỗi phải xấu hổ chết đi được. Tôi liền viết một mạch bài chân dung, đặt tên là “Dại khôn Nguyễn Khải”.

Lúc đầu tôi cứ tưởng, Nguyễn Khải đọc bài này, chắc giận tôi lắm: Nó lại lôi cái nhục của mình ra cho thiên hạ cười. Hóa ra tôi đã lầm.

Có một cô nghiên cứu sinh tên là Tuyết Nga. Cô làm luận văn về Nguyễn Khải. Cô tìm đến anh để tìm hiểu. Anh đưa bài viết của tôi cho cô và nói: “Cô cứ đọc bài này là hiểu rõ tôi”. Nhưng anh lại lấy lại bài viết và đích thân đọc cho cô nghe. Đến câu “Bây giờ nghĩ lại, xấu hổ chết đi được”, anh đỏ bừng mặt, cười hô hố. Cô Tuyết Nga kể lại với tôi như thế.

Từ ngày đó, Nguyễn Khải vốn đã thân với tôi, lại càng thân hơn. Lần nào tôi vào Sài Gòn, anh biết, cũng mời tôi đến uống rượu. Đám cưới con, anh mời tôi đến dự. Tết nào anh cũng gửi thư ra chúc Tết gia đình tôi. Có khi còn trực tiếp gọi điện nữa.

Và về phần tôi, tôi cũng thấy, cái dại của anh chính là cái chỗ đáng yêu của anh. Nó là cái chất nghệ sĩ đích thực của anh đấy. Chỉ có khôn ngoan, tỉnh táo thì viết văn làm sao được.

Nguyễn Khải bằng tuổi tôi, đáng ra còn kém tôi đến 9 tháng. Vậy mà anh đã ra đi rồi. Ngày 15-1-2008, nghe tin anh qua đời, buồn quá !

(Còn tiếp)

 

DẠI KHÔN NGUYỄN KHẢI

 

Nguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với ông. Đúng ra là tôi thích nghe ông nói. Gặp ông, chỉ có ông nói, chứ tôi có nghĩ ra cái gì đáng nói đâu. Vả lại, ông nói liên miên, tôi có muốn cũng chẳng nói vào đâu được. Nhưng ông nói rất hay, rất vui. Đúng là một người thông minh và hay nghĩ nên lắm ý kiến. Ông nói về đời, ông nói về văn. Tôi học được ở ông nhiều qua những lần ngồi nghe ông nói. Một số ý trong những bài viết của tôi là do ông vô tình gợi ra. Ai cũng thế thôi, hễ nghĩ ra được một cái gì tự thấy đắc ý cũng thích nói ra. Một ý nghĩa trong đầu ví như viên ngọc còn thô. Phải phóng ra để cọ xát, mài giũa cho nó sáng lên. Tôi chắc Nguyễn Khải có hẳn chủ trương như vậy nên hễ có dịp là ông tranh thủ nói nhiều.

Tôi cho rằng đấy cũng là cách viết của Nguyễn Khải. Ông ngồi nghĩ là chính. Khi nảy ra một ý, một tư tưởng nào đó mà ông cho là được, ông mới đi tìm thực tế để thể hiện nó ra thành hình tượng, thành văn. Như thế không hẳn là văn minh họa. Vì khi ông ngồi nghĩ một mình thì đã nghĩ từ những hiện tượng này khác rất cụ thể rồi. Và khi đi tìm thực tế thì thực tế với những tình huống bất ngờ của nó sẽ điều chỉnh cho những ý nghĩ của ông đúng hơn, trúng hơn. Đối với người viết văn, dù là sáng tác hay phê bình, tư tưởng chủ quan quyết định, tất nhiên phải là tư tưởng gắn với yêu ghét, khinh trọng thật sự của riêng mình, chứ không phải thứ tư tưởng trừu tượng nảy ra trên bàn giấy, vay mượn trong sách vở. Tôi chắc Nguyễn Khải cũng quan niệm như thế. Vì nghe ông nói chuyện mấy lần, thấy ông hay lấy tiêu chí tư tưởng để đánh giá người này, người khác. Ví dụ ông nói, nhà văn này, từ khoảng năm 1980 trở về trước chả có tư tưởng gì cả, hay là cuốn hồi ký của nhà thơ nọ, đọc lúc đầu có không khí, thích, sau buồn, thấy chẳng có tư tưởng gì, hoặc là ông giáo sư rất uyên bác và danh tiếng kia, thế mà đọc, thất vọng quá, thấy không có tầm cỡ tư tưởng gì, chẳng có băn khoăn gì lớn về chính trị, về triết học...

Tôi chắc Nguyễn Khải đi thực tế rất nhanh và viết cũng rất nhanh. Chiếm thời gian của ông nhiều hơn là ngồi một mình và nghĩ. Mà truyện hay ký của ông hấp dẫn người đọc chủ yếu cũng là nhờ những ý nghĩ ấy. Nhớ lại tình hình ba bốn chục năm về trước, hồi ấy có được ý nghĩ riêng và phát biểu được ý nghĩa riêng không dễ, tuy rằng bây giờ đọc lại, thấy những ý nghĩ ấy cũng chẳng ghê gớm táo tợn gì. Nguyễn Khải giống như một anh cán bộ xã hay huyện gì đó dám tổ chức khoán chui và khoán chui trót lọt trong thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp còn là một chân lý không ai được bàn cãi. Nhưng “khoán chui” ý nghĩ thì phải rào đón cho kín. Đấy là chỗ khôn ngoan của ông, nhưng cũng là chỗ ông phải trả giá, trả giá bằng những đoạn văn rào đón vòng vo dài dòng. Mà văn rào đón thì hay làm sao được.

Người ta thường nói, Nguyễn Khải là người rất tỉnh và khôn - thơ thì có Chế Lan Viên, văn xuôi thì có Nguyễn Khải. Nhận xét đó không sai. Nhưng tôi cho rằng, ông cũng có nhiều lúc say và bốc. Và có lúc cũng dại dột nữa đấy. Nguyên Hồng có lần nói, bọn văn xuôi chúng tôi dại lắm, chỉ có đám làm thơ là khôn. Nhận xét này có khi cũng đúng cả với Nguyễn Khải. Nhưng đó chính là chất nghệ sĩ đáng yêu của ông.

Hồi Đỗ Chu mới xuất hiện, ông ca ngợi rất bốc, như một tài năng ông không sao sánh nổi. Tôi đã được nghe ông nói như thế với cán bộ và sinh viên Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Khi truyện Tướng v hưu của Nguyễn Huy Thiệp ra đời, ông càng bốc hơn nữa: “Trời đất mượn nó để thể hiện ra, chứ tài nó không viết nổi. Viết xong cái truyện này thì coi như nó rồi đời, hết đời. Nó mà viết được một truyện như thế này nữa thì có là thiên tài. Câu trước câu sau khác hẳn, tiền văn không đoán được hậu văn: “Đất nước muôn năm, nhân dân muôn năm! Hoan hô đèn cù”; “Sao lại cho tiền vào miệng bà?”, “Đấy có phải là ngậm miệng ăn tiền?”; “Trong đời, tôi chôn ba nghìn người”, “Thế là sướng, “đòm” phát là xong,... giơ ngón tay nghéo cò... Dữ dội quá, sợ quá, đưa lên phim ảnh thì sợ quá... Một tác phẩm như thế làm mình không dám viết nữa. Thế là hết đời. Tôi xin bỏ nghề đấy!”.

Nguyễn Khải nói say sưa, đầy cảm hứng. Con người này có bụng liên tài thật sự. Người xưa cũng bốc lắm chứ: “Đọc được một câu văn hay, chết cũng sướng”. Các cụ thường nói thế. Đấy là cái sướng đầy chất nghệ sĩ của người có máu văn chương. Tôi rất thích cái bốc như thế của Nguyễn Khải.

Nhưng có những cái bốc tôi cho là dại, là khờ. Nhớ lại cái năm liền sau Đại hội VI của Đảng, Nguyễn Khải được gọi ra Hà Nội để chuẩn bị Đại hội Nhà văn lần thứ tư. Ông cũng bốc ra trò. Ông từng sôi nổi nói với tôi nhiều chuyện về ý đồ cải cách Hội Nhà văn, nào phân công ra sao, nào cách làm ăn thế nào cho khôn khéo để có thể đổi mới một cách an toàn,... Bây giờ nghĩ lại xấu hổ chết đi được. Nhưng rồi ông tỉnh ra ngay. Trí khôn lại trở lại.

Cách đây vài chục năm, có một vị đàn anh trong nghề dạy tôi thế này: Chúng ta là những con chuột, muốn an toàn phải đào nhiều hang. Mất hang này, ta chạy vào hang khác. Nguyễn Khải có cái hang sáng tác. Có biến, ông chui tọt ngay vào. Lý ra đã là người viết thì ai chả phải đào cho mình cái hang sáng tác nhưng lại cứ phải đào cho mình những cái hang khác.

Tôi cho rằng cái hang sáng tác của Nguyễn Khải khá tốt đấy. Và ông cũng chỉ nên ở cái hang ấy thôi.

* * *

Cái lý lịch đặc biệt của Nguyễn Khải khiến ông hình như có hai con người trong một con người, có hai vùng thẩm mĩ trong một thế giới nghệ thuật.

Một con người căm ghét bọn trưởng giả - cả cũ lẫn mới. Khi con người này làm chủ thì Nguyễn Khải thường ném vào đối tượng gọi chung là trưởng giả kia những lời lẽ thật đau, thật ác, nhiều khi ngoa ngoắt. Hạng người này ở đâu cũng có, kể cả trong giới nhà văn. Nguyễn Khải dành cho đối tượng này những lời khinh bạc đến điều: “Hạng này không viết được cái gì ra hồn đâu. Đi ôtô, ở nhà lầu, đi nước ngoài quanh năm, lại còn sáng tạo nữa! Thế ông vơ hết của thiên hạ à? Trời công bằng lắm, có luật thừa trừ hết” - Có lần tôi nghe ông nói như thế về một nhà thơ.

Sau 1975, giải phóng Sài Gòn, vớ được hạng này chưa kịp chuồn ra nước ngoài, ông liền dựng họ lên thành nhân vật để “tặng” cho mấy cái tát - “tưởng ghê gớm lắm, hóa ra vừa ngu vừa hèn!” (truyện Gp g cui năm, kịch Cách mng).

Đối lập với hạng trưởng giả kia là những con người suốt đời lầm lũi sống trong bóng tối, như con giun con dế, hầu như không bao giờ biết đến hạnh phúc ở đời. Đó thường là những người đàn bà còn mang cái đức nhẫn nại và nhẫn nhục của thời xưa, hoàn toàn hy sinh cho đời, cho chồng con, không bao giờ nghĩ sống cho bản thân mình, như là chị Vách trong Đi kh, chị Khuê trong Người v, hay chị vợ anh Phúc trong Chúng tôi và bn hn,... Nguyễn Khải đã tìm đến những con người ấy để ghi công họ, để biểu dương họ như những tấm gương liệt nữ vĩ đại của thời nay - ông gọi “là vàng mười, là kim cương, là báu vật, là sự may mắn nhất” của chồng con (Chúng tôi và bn hn) - nhưng đời lại hoàn toàn không biết đến. Và chính họ cũng không hề biết đến. Đời không biết là rất dở, nhưng họ không tự biết thì vẻ đẹp lại càng thêm chói lọi.

Con người Nguyễn Khải này chắc chắn phải mang trong mình dòng máu của lớp cùng dân, từng bị giày xéo, lăng nhục. Vì thế lời văn khi thì uất hận, khi thì xót xa - một thứ văn như để giải oan, như để đòi nợ, như để trả thù,...

Nhưng bên cạnh đó lại có một Nguyễn Khải khác, rất am hiểu và đồng cảm với giới thượng lưu của Hà Nội xưa. Lớp người này không còn vương sót lại bao nhiêu - nó là một thứ “Hà Nội vang bóng một thời”. Lớp người này cũng có nhiều cái dang dở, ích kỷ, lỗi thời, nhưng có một cái gì đó sang và đẹp. Họ khôn ngoan thật, nhưng biết tự trọng. Khôn ngoan để thích ứng với thời thế, nhưng không chịu để mất niềm tin riêng, cốt cách riêng. Ấy là một lối sống, một nền nếp văn hóa riêng dường như mang linh hồn nghìn xưa của đất đế đô thanh lịch, là một di sản quý rất cần trân trọng như trân trọng những ngôi nhà cổ, những đường phố cổ của Hà Nội cổ”, cần có một cơn lốc xoáy hút nó bay lên cho sáng đẹp đất kinh kỳ,... Tất nhiên Nguyễn Khải muốn góp phần làm nên cơn lốc đó. Đây là một vùng thẩm mĩ mới chỉ có thể xuất hiện dưới ngòi bút Nguyễn Khải khoảng mười lăm năm lại đây thôi. Xui khiến ông khai thác vùng thẩm mĩ này, dĩ nhiên phải là một Nguyễn Khải khác, thuộc một dòng máu khác. Khi con người này làm chủ thì người ta thấy ông thích nói chuyện sang, thích nói giọng sang.

Mấy năm gần đây, Nguyễn Khải hay viết về bản thân mình - một lối hồi ký, tự truyện. Ở những tác phẩm này, Nguyễn Khải lại như cố tình khoe với thiên hạ cái hèn, cái kém, cái nhếch nhác đến tội nghiệp của mình. Có một cái gì giông giống như tự truyện của Tô Hoài. Hóa ra cuộc đời của ông cũng lắm gian truân, cũng đầy tủi nhục. Ông chỉ tự cho là “một giọt nắng nhạt” thế thôi. Chính những truyện này đã giải thích hai dòng máu nói trên ở Nguyễn Khải. Một lối văn tự trào vừa chua chát cay đắng, ngậm ngùi, có lúc như nói hờn, nói dỗi. Nhưng ẩn kín đằng sau lại là một thái độ đầy tự tin - phải tự tin, thậm chí ngạo đời mới dám khoe cái hèn, cái kém của mình ra chứ! Người không có cái gì khiến người đời phải nể trọng thì chỉ có “tốt đẹp khoe ra, xấu xa đậy lại” thôi chứ! Cụ Tú Xương ngày xưa thường hay khoe ra, thậm chí phóng đại những cái hư hỏng, tồi tệ, vô tích sự của mình, chính vì cụ không phải kẻ tầm thường đâu, một trái tim, một tâm sự lớn lắm đấy. Chẳng qua là tự thấy bất lực trước thời thế nên mới tự trào và nói phẫn thế thôi. Cho nên ở cái tôi - hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, tôi ngờ rằng có cả hai dòng máu nói trên hòa trộn, khó phân biệt.

* * *

Nguyễn Khải là người có thực tài. Nhưng tài của ông ở đây? Nó là thế nào. Tôi vẫn thấy lúng túng.

Truyện gì mà toàn nói chính trị, toàn bàn về thời cuộc, thời sự, toàn luận về đạo lý. Hầu như không có tình yêu cho nó mùi mẫn ướt át một tý. Nhiều truyện cũng chẳng có tình tiết gì ly kỳ. Vậy mà nói chung truyện nào cũng đọc được, thậm chí hấp dẫn nữa. Riêng tôi đọc báo, cứ thấy có tên Nguyễn Khải là thế nào cũng phải đọc.

Chung quy là những ý nghĩ của ông, những ý nghĩ ông gọi là bơi ngược dòng: “bơi ngược một tý, rẽ ngang một tý (Anh hùng bĩ vn). Tôi thì gọi là “khoán chui”, “khoán chui tư tưởng”.

Nhưng “khoán chui” chỉ có nghĩa khi đang ở thời thịnh của hợp tác xã nông nghiệp. Khi khoán đã thành chế độ tự do, khoán cả làng, thì “tài khoán chui” còn cần gì nữa. Thời bao cấp chấm dứt, Nguyễn Khải đâm ra lúng túng. Đúng là “anh hùng bĩ vận” thật.

Nhưng chỉ ít lâu sau, ông lại đã nghĩ ra cách thoát khỏi vận bĩ. Thôi thì cứ thật thà đóng vai người cũ, thuộc thế hệ già, thử nhìn lại đời mình bằng con mắt của thời cuộc mới xem sao. Nhân vật chính của ông giờ đây là cái tôi trải đời của mình và những nhân vật cũng trải đời như ông. Trải đời mà thấy mình lạc lõng. Trải đời mà như chẳng có kinh nghiệm gì, cứ ngơ ngác trước cuộc đời, vì đây là thời đổi mới, thời mở cửa. Nhưng như thế mà lại hay, mà lại vui. Ngày xưa nghĩ lại thấy cũng buồn: “Không phải lo nghĩ mà lại buồn. Ngày ngày đều giống nhau: người người đều giống nhau, một đời người như ngắn đi rất nhiều vì không có những bất ngờ, những may rủi, không có những thăng trầm. Một ngày [...] nghe đủ mọi chuyện, nhưng chẳng có câu nào chuyện nào tạm gọi là thú vị về một đời người. Nhưng đời người rất nhạt nên không thể gọi là đã có” (Anh hùng bĩ vn). Bây giờ thời thế đã khác, con mắt mình, trí óc mình cũng đổi khác, nhìn đâu cũng thấy chuyện mới lạ, người mới lạ: “Vẫn là con người Việt Nam mình mà gặp thêm một người lại tưởng như mình phải hiểu lại về con người” (Hai ông già Đng Tháp Mười). Nguyễn Khải bèn đối chiếu hôm nay với hôm qua, đối chiếu con mắt của lớp trẻ với con mắt của lớp già, của người anh hùng thời nay và người anh hùng thời qua. Và ông thấy nảy ra biết bao vấn đề để suy nghĩ, bàn luận, triết luận vốn là chỗ sở trường của ông và là cái thú riêng của ông: nào chuyện lựa chọn đường đi của mỗi cá nhân trong xu thế chung của cộng đồng, chuyện cái ngẫu nhiên và cái tất yếu của lịch sử, chuyện rủi, may, khôn, dại, buồn, vui,... của những kiếp người. Cả chuyện văn chương cũng đổi khác rồi. Ôi, cái thời xưa “Văn chương ở cạnh mình, sống hàng ngày với mình mà vẫn tưởng như vời vợi đâu đó cao xa lắm” (Ngh văn cũng lm công phu). Nguyễn Khải khi thì lấy con mắt của người hôm nay để quan sát người hôm qua, khi thì lấy con mắt của người hôm qua để quan sát người hôm nay. Tha hồ mà phát hiện cái hay, cái dở để mà hoặc ngợi ca, hoặc giễu cợt. Vì hôm nay hay hôm qua đều có chỗ đáng khen và chỗ đáng chê. Mà viết như thế cũng đỡ đơn điệu, vì có điều kiện luôn luôn thay vai, đổi giọng.

Dĩ nhiên ý nghĩ dù có hay đến đâu cũng không thành văn được. Phải cho nó nhập vào nhân vật này nhân vật khác. Một trong những tài năng đặc biệt của Nguyễn Khải là chộp được rất nhanh những kiểu người có “vấn đề” khác nhau để có dịp ném ra những suy nghĩ của mình, khi thì trực tiếp, khi thì đặt vào miệng các vai truyện. Ngay trong cái thời mà khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn phát triển mạnh mẽ trong đời sống văn học, Nguyễn Khải thỉnh thoảng vẫn bờm xơm vỗ vai, xoa đầu nhân vật anh hùng của mình một cái. Cái chất suồng sã ấy, thế mà có tác dụng rất tốt, nó khiến người đọc thấy ông không lý tưởng hóa nhân vật của mình, tin là những người có thật, và tin những ý nghĩ của ông ném ra kia cũng là xuất phát từ sự thật.

Tuy nhiên, trong thời bao cấp, những ý nghĩ gọi là “ngược dòng” của Nguyễn Khải, thực ra cũng khó thoát hẳn ra ngoài nguyên tắc tư duy chung cộng đồng, cho nên những nhân vật mang tư tưởng của ông chưa phong phú lắm. Và cái phần tư tưởng của ông gửi vào nhân vật xem ra nhiều hơn, nặng hơn cái phần tư tưởng của nhân vật làm giàu cho cái vốn của ông.

Nhưng từ ngày đổi mới, tình hình có khác, nhất là mười năm lại đây thế giới nhân vật của ông phong phú, đa dạng hơn, nhiều kiểu người, dạng người trước kia không có, không thể có. Và những nhân vật ấy bồi đắp tư tưởng cho ông nhiều hơn là ông cung cấp tư tưởng cho chúng. Một thế giới nhân vật chứa đựng nhiều khám khá hơn, bất ngờ hơn.

Những nhân vật này đúng là khá đa dạng, những hãy để ý mà xem, đại bộ phận đều là những người già. Hình như nhân vật Nguyễn Khải càng ngày càng già, và ông cũng ngày càng thích đóng vai già, thích nói giọng già. Nhưng nghĩ cho cùng, xưa kia cũng vậy thôi, hình như Nguyễn Khải chưa từng có nhân vật thật sự trẻ bao giờ. Người nào cũng khôn ngoan, cũng trải đời, thạo đời, lõi đời, và cũng thích,... dạy đời thì trẻ làm sao được, trẻ cũng hóa già, như cái Tấm trong Đa con nuôi đấy thôi,... Đúng như Nguyễn Khải tự bạch, cái Tấm cũng là Nguyễn Khải, đều không có tuổi trẻ, trong đời thực cũng như trong đời văn.

Nhiều tác phẩm của Nguyễn Khải, từ trang này đến trang khác, toàn là những lời đối đáp tay đôi, tay ba về chính trị, thời sự, về đạo lý. Thật tình mà nói, dù ý kiến hay ho, tri thức mới lạ thế nào, đọc mãi cũng nản. Lắm lúc cứ như là đọc biên bản những cuộc hội thảo về đề tài chính trị, thời sự vậy. Rất may là Nguyễn Khải có một giọng văn riêng có khả năng thổi sự sống vào những dòng chữ khô khan. Một giọng trần thuật mà như là trò chuyện thoải mái với người đọc và với nhân vật của mình. Một cách nói năng hoạt bát, thông minh, hóm hỉnh, hiểu mình, hiểu đời, lắm lúc cứ như muốn đi guốc vào bụng thiên hạ. Một giọng văn mà nhiều khi thật khó phân biệt là nói với người hay nói với mình, tự trào chua chát có, giễu người, giễu đời cũng có. Một cách diễn đạt khôn ngoan, hay dùng lối nước đôi lấp lửng, hiểu là phê phán cũng được, hiểu là khẳng định cũng được. Bởi vì thời nào cũng có tốt có xấu, người nào cũng có thiện và ác, có sang có hèn, và chuyện đời thì có thế này và có cả thế kia,... không nên phán xét hay quy kết đơn giản một chiều...

Giọng văn của Nguyễn Khải muốn nói với ta như thế chăng?

N.Đ.M Quan Hoa, Xuân Canh Thìn

12 - 3 - 2000

 

Lưu trữ Skip Navigation Links.
Expand  Năm 2012 Năm 2012
Expand  Năm 2013 Năm 2013
Expand  Năm 2014 Năm 2014
Expand  Năm 2015 Năm 2015
Expand  Năm 2016 Năm 2016
Expand  Năm 2017 Năm 2017
Expand  Năm 2018 Năm 2018
Expand  Năm 2019 Năm 2019
Expand  Năm 2020 Năm 2020
Expand  Năm 2021 Năm 2021
Expand  Năm 2022 Năm 2022
Expand  Năm 2023 Năm 2023
Expand  Năm 2024 Năm 2024
Chia sẻ trên Facebook