CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Nico-paris.com hỏi - GS Nguyễn Đăng Mạnh trả lời

SUY NGHĨ TỪ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

Thứ năm ngày 26 tháng 7 năm 2012 4:53 PM

Nico-paris.com: Năm 2012, nhà giáo nhân dân, giáo sư, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh bước vào tuổi 83. Hơn 50 năm gắn bó với nghề dạy học và nghiên cứu-phê bình, ông đã từng là chủ biên của nhiều tập giáo trình đại học, nhiều bộ sách giáo khoa Ngữ văn, nhiều bài phê bình văn học sắc sảo và không ít công trình nghiên cứu công phu, có giá trị về các nhà văn Việt Nam hiện đại, đặc biệt là các nhà văn trong giai đoạn 1930-1975. Trên hành trình từ bục giảng đến văn đàn, ông đã để lại dấu ấn đáng nhớ trong tâm khảm của nhiều thế hệ học trò cũng như trong lòng độc giả.

Bạn đọc trong và ngoài nước đã có dịp làm quen với nhiều bài phê bình văn học đặc sắc của ông, nhưng những chuyện “bếp núc” xung quanh các bài phê bình ấy thì ông vẫn ủ kín trong lòng như những kỷ niệm khó quên.

Nico-paris.com hân hạnh được khai thác và trân trọng giới thiệu với bạn đọc những tâm sự của GS Nguyễn Đăng Mạnh qua những cuộc phỏng vấn xung quanh một số bài phê bình nổi tiếng của ông.


PHẦN II  

Nico: Thưa GS, sau khi đọc một số  bài viết của GS trên mạng, một số độc giả ở Pháp và riêng tôi có nhận xét: có vẻ như những bài viết ấy đang đối thoại, tranh luận ngầm với ai đó. GS thấy nhận xét đó thế nào?


GS Nguyễn Đăng Mạnh: Tôi cho rằng nhận xét ấy rất tinh đấy. Quả là phần lớn các bài nghiên cứu, phê bình của tôi đều muốn bác bỏ ý kiến của một số nhà phê bình gọi là chính thống – Xuân Diệu, Huy Cận gọi là những nhà phê bình officiels (phê bình quan phương).

Lý do là thế này: Khi tôi bắt đầu làm công việc nghiên cứu phê bình văn học (khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước), thì trong đời sống văn học ở miền Bắc Việt Nam có hiện tượng rất phổ biến là sự đối lập gay gắt giữa giới sáng tác và giới phê bình. Giới sáng tác tung ra đủ thứ từ ngữ nhằm giễu cợt giới phê bình như: Xuân Diệu gọi Vũ Đức Phúc là cái “xe tăng mù” – cứ húc bừa bãi một cách rất thô bạo và vô lối. Nguyễn Đình Thi thì gọi loại phê bình này là những “mụ dì ghẻ cay nghiệt” đối với sáng tác. Có người thì gọi là phê bình “quốc doanh”, phê bình quyền uy, phê bình “gác cổng” của Đảng. Nguyễn Tuân có lần ốm nặng phải đưa đi cấp cứu ở bệnh viện Hữu nghị Việt Xô. Người ta đưa ông vào một phòng có sẵn một bệnh nhân là Nam Mộc – một cây bút phê bình officiel. Ông nhất định không chịu ở chung phòng với Nam Mộc, đòi hoặc ông hoặc Nam Mộc phải chuyển đi phòng khác. Các nhân viên bệnh viện đành phải chiều ý ông. Sau này có lần ông nói với tôi, có nhà báo nước ngoài hỏi ông có thói quen viết vào lúc nào. Ông nói, thường viết ban đêm. Hỏi tại sao vào lúc đó. Ông nói vì lúc đó, các nhà phê bình họ ngủ cả rồi.

Ngay Hoài Thanh, giới sáng tác cũng không ưa. Vì Hoài Thanh sau cách mạng cũng lên gân lên cốt, luôn tỏ ra có lập trường của giai cấp vô sản, ông phủ nhận cả “Thi nhân Việt Nam” của mình: “Thi nhân còn một chút duyên, chẳng cầm cho vững lại lèn cho đau” (Thơ Xuân Sách), cho là có tội với cách mạng. Xuân Diệu, Nguyễn Tuân gọi Hoài Thanh là “thằng nịnh”, vì chỉ nhăm nhăm ca ngợi thơ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Sóng Hồng…

Đặc điểm chung của loại phê bình quan phương chính thống này là hết sức máy móc giáo điều, chuyên vận dụng lý thuyết của Stalin, J.Đanốp, Mao Trạch Đông… để quy chụp chính trị, hoàn toàn không quan tâm gì đến đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ, đến giá trị thẩm mỹ của văn học, đồng thời luôn luôn lên giọng tuyên huấn, dạy dỗ các nhà văn.

Trước tình trạng đó, tôi thấy không ổn, rất vô lý. Tôi quan niệm phê bình đúng là rất cần có cơ sở lý luận. Nhưng lý luận phải đúng thì mới giải phóng cho sáng tác, còn lý luận sai lại là thứ xiềng xích trói buộc rất chặt sức sáng tạo của nhà văn. Vì thế, tôi chủ trương dứt khoát phải tiếp xúc trực tiếp với giới sáng tác để từ thực tế kinh nghiệm của họ mà tiếp nhận lý luận – nghĩa là gắn lý luận với “cây đời”.

Vì thế nhiều bài nghiên cứu phê bình của tôi thể hiện ý thức tranh luận nhằm bác bỏ ý kiến nào đấy của các nhà phê bình officiel.

Xin lấy một ví dụ: Trong bài “Tư tưởng và phong cách một nhà thơ lớn” (Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục, tái bản lần thứ 5, 2007), tôi phát hiện và đề cao một đặc điểm về thi pháp của thơ Xuân Diệu như một cách tân hiện đại hóa rất quan trọng của nhà thơ: Con người giữa tuổi trẻ và tình yêu là chuẩn mực của cái đẹp, đối lập với thơ ca trung đại coi thiên nhiên mới là chuẩn mực. Vì thế, thơ xưa để ca ngợi vẻ đẹp của con người, đều ví với thiên nhiên (tóc mây, mặt hoa, mày liễu, lưng ong…). Xuân Diệu so sánh ngược lại, ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên bằng cách ví với vẻ đẹp của con người (“trăng vú mộng của muôn đời thi sĩ”, “lá liễu dài như một nét mi”…). Tôi đặc biệt ca ngợi câu thơ này mà tôi cho là tuyệt vời, thể hiện đặc trưng thi pháp nói trên của Xuân Diệu: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.Và nhân đó đả kích một số nhà phê bình quan phương. Tôi viết: “Có một nhà nghiên cứu Thơ mới đã phê phán câu thơ này là không được lành mạnh. Chao ôi! Vậy thì như thế nào mới là lành mạnh? Tôi nghĩ chỉ có những tâm hồn chưa được lành mạnh mới không biết kính trọng câu thơ đẹp một cách thật là lành mạnh và cường tráng này” (Sđd, trang 211).

Có một số bài tiểu luận, phê bình của tôi thể hiện thái độ đối nghịch với giới phê bình quan phương chính thống ở ngay đề tài. Chẳng hạn những bài tôi ca ngợi tinh thần yêu nước, tính chiến đấu trong “Bút ký chống Mỹ” của Nguyễn Tuân hay khẳng định giá trị hiện thực xuất sắc của tác phẩm Vũ Trọng Phụng ra đời vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước, đúng giữa lúc hai nhà văn này đang bị phê phán quyết liệt. Nguyễn Tuân thì bị coi là có nhiều lệch lạc về lập trường tư tưởng, Vũ Trọng Phụng thì bị quy kết là chống cộng,Trôt-kít, tự nhiên chủ nghĩa. Ông Hoàng Văn Hoan, ủy viên bộ Chính trị lúc bấy giờ, viết hẳn một bài đại luận, gọi Vũ là nhà văn lưu manh, chỉ có độc cái tài xỏ xiên, lại mắc tội đạo văn của Tào Ngu bên Tàu ( kịch Lôi Vũ) để viết Giông tố

Những bài viết của tôi có tính chất “phi chính thống”, “phi quan phương” như thế, tất nhiên không tránh khỏi bị những cây bút phê bình “gác cổng” phê phán. Bài viết về Nguyễn Tuân (Con đường Nguyễn Tuân đi đến “Bút ký chống Mỹ” -  tạp chí Văn học, 1968) thì bị ông Trường Chinh trực tiếp phê phán. Còn bài viết về Vũ Trọng Phụng (Mâu thuẫn cơ bản trong thế giới quan và sáng tác của Vũ Trọng Phụng – tạp chí Văn học, 1971) thì bị Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn phê bình, uốn nắn…

Tôi xin ngừng lời ở đây, vì phát biểu đã quá dài. Nhận xét của chị Nico về các bài viết của tôi chứng tỏ chị rất hiểu tôi và tỏ ra đồng tình với tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn!

Láng Hạ, 20-06-2012

 (Còn tiếp)


MẤY SUY NGHĨ TỪ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP

CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG

 

Trong lĩnh vực văn chương, tác phẩm không hay, không có giá trị nghệ thuật thì chỉ là con số không, chẳng có gì để nói, để bàn. Người viết ra nó, dù cuộc đời có ly kỳ thế nào, người ta cũng chẳng quan tâm.

Nhưng một cây bút khi đã tạo ra được những kiệt tác, thì cuộc đời ông ta, tác phẩm của ông ta, tự chúng sẽ đặt ra biết bao vấn đề khiến ta phải suy nghĩ để khai thác những bài học kinh nghiệm, để rút ra những chân lý này khác về sáng tạo nghệ thuật. Vũ Trọng Phụng là trường hợp như vậy. Ngày nay người ta không còn phải dè dặt khi gọi ông là một thiên tài: hai mươi bảy tuổi đời mà để lại một sự nghiệp đồ sộ, trong đó có những tác phẩm có thể gọi là không tiền khoáng hậu.

Từ cuộc đời và sự nghiệp ấy, có thể ngẫm ra nhiều điều bổ ích và thú vị.

1. Văn chương đã có giá thì không thể chôn vùi được

Chân lý này chẳng có gì mới lạ. Từ nghìn năm trước ta đã nói rồi: Lập ngôn cùng với lập đức, lập công là ba sự nghiệp bất hủ của người đời. “Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt/ Sở Vương đài tạ không sơn khâu”/ - Lý Bạch đã viết như thế. Điều đáng nói ở đây là, cuộc đời và tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã cung cấp cho ta một bằng chứng thật quý hiếm, đầy sức thuyết phục về chân lý ấy.

Nhớ lại không khí căng thẳng của đời sống văn học những năm sáu mươi, bảy mươi của thế kỷ XX, sau vụ Nhân văn - Giai phẩm, mà chưa hết ghê sợ. Người ta đổ lên đầu Vũ Trọng Phụng đủ mọi tội lỗi ghê gớm nhất: trốtkít, chống Cộng, đạo văn, đầu cơ chính trị, mật thám cho Tây, lưu manh, trụy lạc, chỉ có độc cái tài xỏ xiên, văn chương thì dâm uế, tự nhiên chủ nghĩa, thuộc dòng văn học phục vụ giai cấp tư sản mục nát[1] v.v... Người ta đã vùi Vũ Trọng Phụng xuống tận bùn đen, lại còn đổ lên trên hàng tấn rác rưởi bẩn thỉu nhất. Ấy vậy mà chỉ mươi năm sau, tác phẩm Vũ Trọng Phụng, như những mầm cây đầy nhựa sống, lại tiếp tục vươn lên, chọc thủng lớp lớp bùn đất, nảy nở tốt tươi, đơm hoa, kết trái dưới ánh sáng mặt trời.

2. Nhà văn và thực tế

Hỏi chuyện mấy nhà văn quen biết Vũ Trọng Phụng (Nguyễn Tuân, Vũ Đình Liên, Bùi Huy Phồn, Lưu Trọng Lư, Như Phong, Nguyên Hồng...), tôi mới rõ, Vũ Trọng Phụng không biết đánh bạc, sống rất đứng đắn, mực thước. Đối với mẹ, là một người con chí hiếu, đối với vợ, là một người chồng mẫu mực, đối với bạn bè, đồng nghiệp, tuy nghèo túng thật, nhưng ứng xử rất đoàng hoàng, đầy tự trọng... Thế mà đọc tác phẩm của ông, thấy ông viết về các mánh khóe cờ bạc như một tay sành sỏi (Cạm bẫy người). Và thế giới nhân vật của ông thì đầy rẫy những thằng cha đểu giả, xỏ xiên, bịp bợm, dâm ô, độc ác... Vậy là sao? Giải thích thế nào đây về quan hệ nhà văn với thực tế mà ông phản ánh? Đọc Kỹ nghệ lấy Tây, thấy có nhân vật xưng “tôi” - người kể chuyện đích thân lên tận Thị Cầu (Bắc Ninh), vào hẳn cái làng me Tây bên trại lính lê dương để điều tra sự thật. Cơm thầy cơm cô cũng vậy. Vẫn cái nhân vật xưng “tôi” ấy đóng vai một anh cơm thầy cơm cô, thâm nhập vào thế giới những con sen, thằng nhỏ, chị vú, anh bồi để tìm hiểu thực tế. Nhưng sự thật có phải thế đâu! Vũ Trọng Phụng bịa đặt, hư cấu ra thế thôi. Phóng sự Tôi kéo xe của Tam Lang cũng có một nhân vật xưng “tôi” như thế đóng vai phu xe. Cũng là bịa đặt ra cả. Làm gì có chuyện đi thực tế như thế của các nhà văn thời bấy giờ. Nhà thơ Vũ Đình Liên biết rất rõ điều đó. Ông ở cùng phố Hàng Bạc với Vũ Trọng Phụng. Không có chuyện ấy đâu! Bịa ra hết! - Vũ Đình Liên nói thế mà! Vậy thì giải thích như thế nào về những bức tranh hiện thực rất chân thật, rất sinh động trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng?[2]

Tôi cho rằng, trong sáng tạo nghệ thuật, điều quyết định là tư tưởng nghệ thuật (idée poétique) của nhà văn. Đó là một hình thái tư tưởng tổng hợp, bao gồm cả lý chí, tình cảm, cảm xúc, cả tiềm thức, vô thức, được huy động triệt để trong giờ phút cảm hứng vào việc nhận thức và diễn tả thế giới. Nó tạo ra ở tâm hồn nhà văn một chất dính riêng, một thứ nam châm riêng, có khả năng bắt lấy, hút lấy rất nhạy và làm sống dậy, trong trí tưởng tượng của người viết, tất cả những gì đáp ứng yêu cầu của nó, kể cả những tư liệu gián tiếp thu lượm từ sách vở báo chí hay nghe ai đó thuật kể lại. Vũ Trọng Phụng là người rất ham đọc, ham học. Ông là một nhà báo, nên phải đọc đủ thứ sách vở, báo chí, tiếng Tây, tiếng ta để nhặt tin tức. Ông lại có một người bà con tên là Trưởng Tạo cùng ở căn hộ, người tầng trên, người tầng dưới. Trưởng Tạo là tay ăn chơi lõi đời, rất thạo các ngón cờ bạc. Ông ta là một kho tư liệu sống, thường xuyên cung cấp “thực tế” cho Vũ Trọng Phụng.

Tất nhiên tư tưởng nghệ thuật cũng có nguồn gốc từ đời sống thực tế. Nó được hình thành ở nhà văn từ tuổi ấu thơ, do tác động của môi trường xã hội, môi trường thiên nhiên, môi trường văn hóa. Vũ Trọng Phụng xuất thân trong một gia đình dân nghèo thành thị, mồ côi cha từ nhỏ, nhà có bệnh lao gia truyền (ông nội, ông thân sinh và bản thân Vũ Trọng Phụng đều mất sớm vì bệnh lao. Khi Vũ Trọng Phụng qua đời, cảnh nhà rất bi thảm: ba người đàn bà góa trong một gia đình). Vũ Trọng Phụng học hết bậc tiểu học đã phải đi làm để kiếm sống. Chạy được chân thư ký quèn cho một nhà in, rồi một hãng buôn, thì cả hai lần đều bị sa thải vì nạn kinh tế khủng hoảng. Một thiếu niên vừa bước chân vào đời thì mọi con đường lập thân, lập chí đều tắc nghẽn hết. Hoàn cảnh ấy đã tạo ra ở Vũ một tâm trạng phẫn uất mãnh liệt đối với cái xã hội mà ông gọi là “chó đểu” - một xã hội mà kẻ có quyền, có tiền làm chủ tất cả, chi phối tất cả. Tư tưởng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được tạo nên từ đó. Ông lại sống chủ yếu ở phố Hàng Bạc, trong một căn gác xép. Vùng phố này là một trong những trung tâm buôn bán và ăn chơi của Hà Nội. Kề chung quanh là Hàng Đường, Hàng Đào, Hàng Buồm, Đồng Xuân, Mã Mây, Sầm Công, Tạ Hiền, nhan nhản những tiệm ăn, tiệm hút, rạp tuồng, rạp hát... Cạnh nhà Vũ Trọng Phụng lại sừng sững dinh cơ của bà Bé Tý, một mụ me Tây cao cấp nổi tiếng một thời (người ta gọi là “Bà chúa Hàng Bạc”). Vậy là hàng ngày giễu qua giễu lại trước mắt Vũ Trọng Phụng là một thế giới nhân vật, như muốn trêu ghẹo, chọc tức ông: giàu là con buôn, me Tây, bọn công tử bột ăn chơi, nghèo là bồi săm, bồi tiêm, ma cô, lưu manh, gái điếm... Tất nhiên ở đâu chả có những người dân lương thiện. Nhưng với tâm trạng phẫn uất, thái độ bi quan, cái nhìn của Vũ dễ bị hút nhiều hơn về phía đen tối của “nhân loại”, dễ bắt lấy nhiều hơn những mặt trái của cuộc đời.

Vâng, tạo ra thế giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng, vẽ ra những bức tranh hiện thực của Vũ Trọng Phụng, là cái tư tưởng nghệ thuật ấy. Một số kiếp đầy bất hạnh, một cuộc đời của “Tài cao, phận thấp, chí khí uất” (Tản Đà), một tâm trạng căm thù không bao giờ nguôi đối với cái xã hội “chó đểu” ngày trước, đó là nguồn gốc tài năng của Vũ Trọng Phụng, là linh hồn của chủ nghĩa hiện thực có sức công phá ghê gớm của Vũ Trọng Phụng.

3. Nhà văn và sức mạnh tưởng tượng tổng hợp

Viết văn, nhất là viết tiểu thuyết, phải có khả năng khái quát tổng hợp. Không phải khái quát bằng những khái niệm trừu tượng thuộc lý trí mà bằng sức mạnh tưởng tượng: tạo ra một thế giới nghệ thuật có khả năng phản ánh một cách tổng hợp những mảng hiện thực rộng lớn của xã hội trong một thời kỳ lịch sử.

Nam Cao và Vũ Trọng Phụng đều có khả năng ấy, nhưng họ thực hiện ngược chiều nhau. Tôi nhất trí với Chu Văn Sơn: Nam Cao thường đi từ những cái nhỏ nhặt đời thường, từ một điểm vi mô mà nâng lên, khái quát lên bằng suy tưởng triết lý, đến những vấn đề ở bình diện vĩ mô, có khi liên quan đến vận mệnh của cả đất nước, của cả nhân loại. Vũ Trọng Phụng thì ngược lại: thâu tóm, dồn nén cả một xã hội, cả một thời đại vào trong vài trăm trang sách. Như Giông tố chẳng hạn, biết bao nhân vật sinh sống trên nhiều vùng đất khác nhau, thành phần xã hội và số phận khác nhau, cứ đan chéo vào nhau, đâm sầm vào nhau, huých đập lẫn nhau, tạo nên bao cảnh lên voi xuống chó, xuống chó lại lên voi, đầy tính bi hài...

Không nên hiểu khái quát tổng hợp ở đây là cứ theo dòng tự sự đơn tuyến, lần lượt miêu tả, thuật kể vùng đất này rồi vùng đất khác, cảnh ngộ này rồi cảnh ngộ khác, loại người này rồi hạng người khác một cách rời rạc. Đầu thế kỷ XX, ông Trọng Khiêm đã viết một cuốn tiểu thuyết dày dặn theo lối ấy (Kim Anh lệ sử). Tác phẩm cũng có đủ cả miền xuôi, miền ngược, nông thôn, thành thị, cũng có đủ mọi hạng người trong xã hội bấy giờ. Tất cả được lần lượt ngoắc nối vào nhau, xâu chuỗi vào nhau một cách thiếu tự nhiên bằng cuộc đời phiêu lưu, chìm nổi của một cô gái tên là Kim Anh.

Vũ Trọng Phụng không làm như thế. Ông sáng tạo ra một xã hội hẳn hoi, vận hành theo quy luật nội tại của nó. Những số phận cá nhân có vẻ rất ngẫu nhiên, như là do vận may vận rủi bày ra như vậy, kỳ thực đều bị chi phối bởi những quy luật tất yếu và nghiệt ngã của xã hội một thời. Khái niệm “Sức mạnh tưởng tượng tổng hợp” (puissance d’imagination synthétique) tôi mượn của Lanson, một nhà nghiên cứu văn học Pháp, khi ông đánh giá tiểu thuyết của H. Balzac. Balzac và Vũ Trọng Phụng quả là hai cây bút có sức mạnh tưởng tượng tổng hợp phi thường.

4. Số đỏ và nghệ thuật trào phúng

Trong lịch sử văn học nước ta (và của thế giới có lẽ cũng vậy), xem ra những tài năng trào phúng tầm cỡ lớn không nhiều. Nói riêng về thơ, có thể điểm danh hàng chục nhà thơ trữ tình lớn không khó khăn gì. Nhưng nhà thơ trào phúng cỡ Hồ Xuân Hương, Tú Xương có được bao nhiêu? Nhà tiểu thuyết trào phúng lớn cũng rất hiếm, có lẽ không đếm đủ trên năm đầu ngón tay.

Trong nền văn học hiện đại Việt Nam, về tài năng trào phúng, phải thừa nhận Vũ Trọng Phụng là cây bút số một, một bậc thầy về nghệ thuật châm biếm hài hước. Cho nên Số đỏ là tác phẩm thật quý hiếm. Nguyễn Khải bái phục là phải: Số đỏ“một cuốn sách ghê gớm có thể làm vinh dự cho mọi nền văn học”[3].

Từ Số đỏ, có thể rút ra những bài học gì về nghệ thuật trào phúng?

a) Tôi có được đọc một bài tiểu luận bàn về tiếng cười (Le Rire) của một nhà triết học Pháp (H. Bergson). Luận điểm của ông có thể tóm tắt như sau: Ai là người biết cười? Trả lời: Chỉ có con người. Con người có trí tuệ nên mới biết cười (người trí tuệ kém phát triển, đầu óc trì độn, nói chung, không biết đùa, không biết cười) và Ai là đối tượng đáng cười? Trả lời: Cũng chỉ có con người. Thiên nhiên, loài vật sống rất tự nhiên, chẳng có gì đáng cười cả. Chỉ con người mới hay có những hành vi vô nghĩa lý, thiếu tự nhiên làm bật cười. Bergson gọi là bị đồ vật hóa, máy móc hóa, như con rối. Số đỏ đã khai thác triệt để thủ pháp này. Cứ xem những con vật, như con chó, con mèo, chúng hoạt động rất tự nhiên: đói thì ăn, khát thì uống, thấy chuột thì vồ, buồn ngủ thì ngủ... Làm gì cũng có mục đích, có lý cả. Còn nhân vật Số đỏ thì ăn nói, cử động rất vô nghĩa lý, cứ như những cái máy vô hồn vặn sẵn dây cót: Thằng Xuân gặp ai cũng cúi đầu rất thấp: “Chúng tôi rất hân hạnh”, rồi xổ ra một tràng những câu thuộc lòng như con vẹt: “Hạnh phúc có gì khác nếu không phải là hạnh phúc vợ chồng?”, “Cái gì hủ lậu ta đào thải đi!” “Thể thao... nòi giống...”. Cụ cố Hồng thì tuy chẳng biết gì cả, nhưng động mở miệng là “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi!”. Những nhân vật khác, từ mụ Phó Đoan, Minđơ, Mintoa, đến cậu Phước “em chã” đều được xây dựng theo lối ấy...

b) Nói chung truyện cười cho phép sử dụng thủ pháp phóng đại một cách thoải mái. Thường ngày, đùa vui với nhau, ta cũng phải phóng đại mới có thể gây cười. Nhưng phóng đại đến đâu, đến mức độ nào thì vừa gây được tiếng cười, vừa đảm bảo được tính chân thực của chủ nghĩa hiện thực? Cảm nhận được chính xác cái độ thỏa đáng, cái độ tối ưu ấy, là tài năng của những nhà trào phúng lớn. Phóng đại chưa đến cái độ ấy thì chưa đủ gây cười. Nhưng phóng đại quá cái ngưỡng ấy thì tác phẩm mất tính chân thật, người đọc không tin là có thật, và như thế là nguyên tắc phản ánh của chủ nghĩa hiện thực bị vi phạm.

Nguyễn Công Hoan cũng là một cây bút trào phúng tài năng. Nhưng trong nhiều trường hợp, ông đã phóng đại quá mức. Tác phẩm mất tính chân thật, mất sức thuyết phục.

Lấy một ví dụ: Truyện Nỗi vui sướng của thằng bé khốn nạn. Chủ đề: phê phán sự hư hỏng của phụ nữ. Một bà phán nọ, chồng vừa chết, đã bồ bịch luôn với một ông phán khác bạn của chồng.

- Bước phóng đại thứ nhất: Họ tình sự với nhau ngay cạnh bàn thờ ông phán quá cố (thiếu gì nơi tình tự mà phải ngồi với bồ ngay cạnh bàn thờ của chồng! Sự phóng đại đã bắt đầu vượt ngưỡng).

- Bước phóng đại thứ hai: Bỗng ông phán nhân tình cảm thấy nóng bức quá. Bà vợ góa bèn gỡ luôn cái ảnh của chồng trên bàn thờ cho ông bồ quạt (sự phóng đại hết sức vô lý, thiếu gì cái có thể dùng thay quạt tốt hơn mà phải lấy đến cái ảnh của chồng!).

- Bước phóng thứ ba: Quạt chán, ông phán nhân tình quăng cái ảnh lên bàn nước, khiến mặt chồng bà phán trong ảnh phồng rộp lên...

Nguyễn Công Hoan mắc rất nặng tư tưởng bảo thủ phong kiến, nhất là chung quanh vấn đề hôn nhân, gia đình, vấn đề phụ nữ. Viết về đề tài này, ông không kiềm chế được thái độ ác cảm với những phụ nữ muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của lễ giáo phong kiến. Trong những trường hợp như thế, Nguyễn Công Hoan không còn là một văn sĩ xã hội tiến bộ, không còn là cây bút hiện thực chủ nghĩa nữa.

Số đỏ của Vũ Trọng Phụng không mắc khuyết điểm đó. Thoạt xem tác phẩm này, ta tưởng như sự phóng đại của tác giả còn tùy tiện, phóng túng hơn cả Nguyễn Công Hoan: một thằng macàbông vô học mà trở thành đốc tờ bác sĩ, triết gia, thi sĩ, anh hùng cứu quốc; một mụ me Tây đại dâm ô mà được sắc ban Tiết hạnh khả phong, v.v... Nhưng hãy gấp quyển sách lại và nhìn ra cuộc đời thực mà xem: té ra không thiếu gì những thằng Xuân Tóc Đỏ có thực, không thiếu gì những mụ Phó đoan bằng xương bằng thịt... Hóa ra, Vũ Trọng Phụng chẳng nói oan ức cho thằng nào, con nào cả. Thiên tài của tác giả Số đỏ là ở chỗ ấy: cảm nhận được và dừng lại đúng cái ngưỡng tối ưu của sự phóng đại, để tạo ra những nhân vật rất chân thật, những điển hình hiện thực chủ nghĩa bất hủ.

Về nghệ thuật trào phúng, trong một bài viết về thơ Tú Mỡ, Xuân Diệu phân biệt hai khái niệm “chửi địch” và “đánh địch”. Tất nhiên chỉ là cách diễn đạt có tính ước lệ mà thôi. “Chửi địch” là trực tiếp thóa mạ đối tượng bằng ngôn ngữ, bằng giọng điệu và cách thủ pháp này khác. “Đánh địch” là dựng đối tượng lên thành nhân vật sống động, có tính cách, cá tính thật sự, để tự nó dở những trò lố bịch mà chuốc lấy tiếng cười của thiên hạ. Nghệ thuật “đánh địch” tất nhiên là cao cường hơn. Tú Mỡ, Nguyễn Công Hoan thiên về “chửi địch”. Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Vũ Trọng Phụng thiên về “đánh địch”.

5. Tiểu thuyết và thời sự. Nguyên mẫu và nhân vật truyện của Vũ Trọng Phụng

Đọc Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, thấy Vũ Trọng Phụng có khả năng đưa thẳng không khí thời sự và các sự kiện chính trị, xã hội, văn hóa còn nóng hổi tính thời sự vào tiểu thuyết của mình. Tiểu thuyết mà cứ muốn chạy đua với bút ký, phóng sự và thông tin báo chí. Tôi có đọc một số báo hàng ngày xuất bản cùng thời với các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, thấy có những tin tức tương tự như trong tiểu thuyết của Vũ. Chẳng hạn tờ báo nọ đưa tin bà Bé Tý (một me Tây cao cấp) đến sở Cẩm xin tha cho một thanh niên phạm tội gì đó. Trong tiểu thuyết Số đỏ, bà Phó Đoan cũng đến bóp cảnh sát xin tha cho thằng Xuân phạm tội nhòm trộm một cô đầm thay váy. Lại có báo đăng tin một du học sinh mới ở Pháp về, không kiếm được bằng cấp gì, nên rất khinh bỉ văn bằng. Thì trong Số đỏ, nhân vật Văn Minh cũng đúng như thế. Anh ta dõng dạc giảng cho ông bố ngu si, chậm hiểu của mình: “Học thức không ở văn bằng. Những người như Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh, mà khảo đến bằng, thì thành ra vô học hay sao?” v.v...

Nhiều người sống cùng thời với Vũ Trọng Phụng, nói rằng, đọc Giông tố, Số đỏ, có thể chỉ ra được những người thật trong xã hội đương thời mà Vũ muốn ám chỉ. Trong số các nhà văn hiện đại Việt Nam, có hai cây bút rất hay dùng nguyên mẫu để xây dựng nhân vật của mình: Nam Cao và Vũ Trọng Phụng. Tôi đã từng hướng dẫn một sinh viên cao học làm luận văn, đề tài: “Từ nguyên mẫu đến nhân vật trong truyện của Nam Cao”. Chúng tôi đã về làng Đại Hoàng của nhà văn để tìm tư liệu. Hầu hết nhân vật trong Chí Phèo, Sống mòn đều có nguyên mẫu. Cụ Nguyễn Lương Ngọc, nhà lý luận, phê bình văn học sống cùng thời với Vũ Trọng Phụng cũng nói như vậy về các nhân vật trong Giông tố, Số đỏ. Tôi nghĩ giá có ai đó chịu khó tìm tòi để biết được những nguyên mẫu các nhân vật của Vũ Trọng Phụng thì hẳn rất thú vị. Từ đó, có thể xây dựng được một luận văn vừa có giá trị khoa học vừa hết sức hấp dẫn. So sánh nguyên mẫu với nhân vật truyện, có thể phát hiện ra những phương thức chế biến, hư cấu đầy sáng tạo của nhà văn. Từ gã Chí Phèo - nguyên mẫu (chỉ là một anh đồ tể say rượu bét nhề, chửi trời chửi đất lung tung), Nam Cao đã sáng tạo ra một Chí Phèo - nhân vật văn học bất hủ.

Nhưng tìm hiểu nguyên mẫu của các nhân vật truyện của Vũ Trọng Phụng hẳn là không dễ chút nào. Vì khác với nguyên mẫu các nhân vật trong Chí Phèo, Sống mòn, chủ yếu tập trung ở một làng Đại Hoàng, nguyên mẫu nhân vật trong Giông tố, Số đỏ quá là đông đúc và phức tạp, gồm đủ các hạng người, lại có mặt ở nhiều môi trường xã hội, ở nhiều vùng đất khác nhau, hầu như trên cả nước.

*

*    *

Người ta đã viết nhiều, nghiên cứu nhiều, khám phá nhiều về cuộc đời và sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng. Mấy năm gần đây, có hàng chục luận văn thạc sĩ, tiến sĩ viết về nhà văn này. Vậy mà cuộc đời và sự nghiệp của ông vẫn chưa thôi đặt ra những câu hỏi chưa được giải đáp thấu đáo để tiếp tục làm cho các nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học phải động não.

Mới biết, những cây bút lớn, những tác phẩm đỉnh cao, chẳng những là những đóng góp làm vẻ vang cho truyền thống nghệ thuật dân tộc, mà còn tạo điều kiện cho sự phát triển ngày càng phong phú của khoa học văn chương.


N.Đ.M



[1] Xem Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, Trần Hữu Tá biên soạn, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999. Đọc các bài của Nguyễn Đình Thi (Nhà văn với quần chúng lao động); Hoàng Văn Hoan (Một vài ý kiến về tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam); Vũ Đức Phúc (Vũ Trọng Phụng - nhà văn tự nhiên nhủ nghĩa tiêu biểu).

[2] Nguyễn Tuân, Nguyễn Khải có khả năng tương tự. Nguyễn Tuân chưa lên Tản Viên Ba Vì bao giờ mà viết “Trên đỉnh non Tản” rất đúng. Trong kháng chiến, ông mới có dịp tới ngọn núi ấy và thấy “Sao mình giỏi quá vậy?”. Nguyễn Khải ở ngoài Bắc mà tả “Hòa Vang” chiến đấu chống Mỹ - ngụy như thật. Anh chỉ nghe một nhà tình báo cao cấp thuật kể mà viết về những bộ trưởng, thượng nghị sĩ… thuộc chính quyền Sài Gòn cũ như là thông thạo lắm (kịch Cách mạng và tiểu thuyết Gặp gỡ cuối năm).

[3] Tham luận tại Đại hội Nhà văn lần thứ 3 (9 – 1983). 

Lưu trữ Skip Navigation Links.
Expand  Năm 2012 Năm 2012
Expand  Năm 2013 Năm 2013
Expand  Năm 2014 Năm 2014
Expand  Năm 2015 Năm 2015
Expand  Năm 2016 Năm 2016
Expand  Năm 2017 Năm 2017
Expand  Năm 2018 Năm 2018
Expand  Năm 2019 Năm 2019
Expand  Năm 2020 Năm 2020
Expand  Năm 2021 Năm 2021
Expand  Năm 2022 Năm 2022
Expand  Năm 2023 Năm 2023
Expand  Năm 2024 Năm 2024
Chia sẻ trên Facebook