Một bài nghị luận văn học hay trước hết phải có ý hay. Ý hay là ý đúng, ý
sâu, ý mới, ý riêng. Ý đúng, ý sâu phải là của mình mới hay. Cho nên tìm ra ý mới, ý
riêng, đúng và sâu là công việc quyết định nhất và tất nhiên cũng là khó khăn nhất.
Văn chương không chỉ phản ánh sự sống mà
chính nó cũng là sự sống – tất nhiên là nói văn đạt phẩm chất nghệ thuật cao.
Người
nghệ
sĩ tài năng có thể được xem là một tiểu hóa
công, nghĩa là tạo ra được sự sống. Một hiện tượng sống thì bao giờ cũng là
phong phú, đa chiều, đa dạng, đa diện và vì thế đa
nghĩa. Cho nên người ta nói một áng văn hay là một áng
văn không có đáy, nghĩa là khai thác mãi cũng không cạn ý, cũng không hết nghĩa.
Và mỗi
độc
giả,
do vốn
sống,
vốn
văn hoá, trình độ thẩm mỹ khác nhau, có thể phát hiện ra ở cùng một tác phẩm văn học, những vẻ đẹp khác
nhau và những ý nghĩa khác nhau. Cái gọi là ý mới, ý riêng của người viết bài
nghị
luận
văn học
chính là ở đấy mà ra.
Dưới đây là một số kinh
nghiệm
tìm ý, lập ý.
1. Rút ra nhận xét khái quát từ những hiện tượng “ám ảnh”
trong thế giới nghệ thuật của nhà văn.
Đó là những hiện tượng được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nhưng nói lặp đi lặp lại thì chỉ có nghĩa thuần túy về số lượng – phải nói “ám
ảnh” mới bao hàm phẩm chất của hình tượng,
nghĩa là chứa đựng tư tưởng nghệ thuật, chứa đựng tâm huyết của nhà
văn.
Thí dụ: Đọc các tác phẩm của Nam
Cao, thấy ông hay nói đến hiện tượng con người trước miếng ăn không giữ được nhân
phẩm,
nhân tính, nghĩa là bị biến chất, bị tha hoá. (Một
bữa no, Quên điều độ,
Tư cách mõ, Trẻ con không biết
ăn thịt chó, Đòn chồng, Chí Phèo, Sống
mòn..). Từ đó, có
thể
rút ra nhận xét khái quát về tư tưởng chi phối sâu sắc những tác phẩm tiêu biểu của Nam Cao: ấy là nỗi đau đớn trước tình
trạng
con người không giữ được nhân tính, nhân phẩm do miếng cơm manh
áo. Ở
tầng
lớp
trí thức
nghèo thì đó là tình trạng chết mòn, Sống mòn hay
Đời thừa..; ở người nông dân nghèo, thì là tình trạng chết hẳn về tinh thần, mất hết ý thức về cái nhục (Một
bữa no, Tư cách mõ..) hoặc trở thành quỷ dữ (Chí Phèo)... Như thế là khác
với
Ngô Tất
Tố,
lên án xã hội cũ đã xô đẩy con người vào nạn đói, vào cái khổ, Nam
Cao cũng tố cáo xã hội ấy, nhưng ở chỗ nó lăng nhục con người, hủy hoại nhân
tính, nhân phẩm con người.
Một thí dụ khác: Nguyễn Công
Hoan có sở trường đặc biệt về truyện ngắn trào phúng. Ông tạo ra
hàng trăm thiên truyện rất ngắn và rất vui. Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan thường được tổ chức xoay
quanh một mâu thuẫn giữa hai hạng người. Ở những truyện viết về đề tài xã hội, là mâu thuẫn giữa một gã nhà
giàu nào đó với một người nghèo. Và Nguyễn Công
Hoan đứng
hẳn
về
phía người nghèo để châm biếm, lật tẩy bản chất bất lương, vô liêm sỉ của kẻ giàu có
quyền
thế
cùng tay sai của chúng. Còn ở những truyện viết về đề tài luân lý gia đình, thì lại là mâu
thuẫn
giữa
một
nam, một
nữ,
hoặc
lớp
già, lớp
trẻ.
Và nhà văn đứng hẳn về phía nam giới và thế hệ già.
Ông đả
kích rất
ác loại
phụ
nữ
gọi
là tân thời và lớp thanh niên Âu hóa mà ông cho là đàng điếm, hư hỏng, vô
giáo dục.
Hiện tượng nói trên rất phổ biến trong
truyện
ngắn
Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng tháng Tám, gần như không có ngoại lệ. Vì thế cần hết sức lưu ý. Từ những hiện tượng trở đi trở lại với tần số cao ấy, có thể rút ra
nhận
xét khái quát: về thái độ đối với xã hội thực dân, Nguyễn Công
Hoan có tinh thần dân chủ khá sâu sắc. Nhưng về quan điểm đạo đức trong
quan hệ
hôn nhân, gia đình, ông tỏ ra hết sức bảo thủ, lạc hậu.
Đọc Vũ Trọng Phụng, thấy ông hay dùng cụm từ “Vô
nghĩa lý” (đời vô nghĩa lý, loài ngưòi
vô nghĩa lý, hành vi vô nghĩa lý… ). Từ đó có thể phán đoán: Con người sính
khái quát, triết lý này đã ráo riết đi tìm nghĩa lý của cuộc đời mà
không hiểu được, đâu đâu cũng chỉ thấy toàn chuyện vô
nghĩa lý. Vì thế ông đã rơi vào tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa:
định
mệnh,
số
đen, số
đỏ,
ấy
là cách giải thích “thỏa mãn” nhất đối với mọi thắc mắc về các hiện tượng vô nghĩa lý trên đời..
Tìm hiểu thơ nghệ thuật của Hồ Chí Minh (phần lớn bằng chữ Hán,
theo thể tuyệt cú) thấy ở câu cuối, ở phần cuối của bài thơ, tác giả thường tô đậm hình ảnh con người hoạt động, sự sống tươi vui, bình minh rực rỡ:
Phương
đông màu trắng chuyển sang hồng
Bóng
tối đêm tàn quét sạch không
(
Giải đi sớm )
Cô
em xóm núi xay ngô tối
Xay
hết lò than đã rực hồng
(
Chiều tối )
Làng
xóm ven sông đông đúc thế
Thuyền
câu rẽ sóng nhẹ thênh thênh
(Giữa
đường đáp thuyền đi Ung Ninh)
Trong
ngục giờ đây còn tối mịt
Ánh
hồng trước mặt đã bừng soi
(Buổi
sớm)
..v.v và v.v..
Từ đó có thể kết luận: mạch thơ, hình tượng thơ của Bác Hồ luôn vận động hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.
2. Đề xuất luận điểm từ sự so sánh những đối tượng cùng loại
Tất nhiên so sánh theo quy tắc lô gic
thì phải
so sánh những hiện tượng cùng loại và
trên cùng một bình diện.
Hoài Thanh thường lập ý bằng cách
này. Thí dụ ông so sánh hình ảnh Hồ Chí Minh trong các bài thơ của Tố Hữu ra đời trong
những
thời
kỳ khác nhau để thấy những đổi mới về nhận thức và phát hiện những sáng
tạo
nghệ
thuật
của
nhà thơ
ở
mỗi
tác phẩm.
Xuân Diệu cũng làm như thế khi bình thơ Huy Cận. Chẳng hạn, ông
so sánh hai bài thơ của Huy Cận ra đời trước và sau Cách mạng tháng
Tám cùng viết về mùa mưa (Buồn
đêm mưa
và Mưa xuân trên biển) để thấy những chuyển biến tư tưởng và nghệ thuật của tác giả. Mùa thu, cảnh thu
là đề
tài của
hàng loạt bài thơ kim cổ đặc sắc. Vì thế bình giảng thơ về đề tài nay người ta
cũng thường lập ý bằng lối so sánh..
Tôi cũng thường lập ý bằng cách
đó.
Chẳng hạn so sánh những phát
hiện
khác nhau của Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan và Nam Cao về nỗi khổ của người nông
dân trong xã hội cũ, qua ba tác phẩm Tắt
đèn, Bước đường cùng và Chí Phèo: “Khi Tắt
đèn của Ngô Tất Tố và Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan ra đời,
tôi chắc ít ai nghĩ rằng thân phận
người nông dân dưới ách đế quốc phong kiến
lại có thể có một nỗi khổ nào hơn những nỗi khổ của chị Dậu, anh Pha. Nhưng
khi Chí Phèo ngật ngưỡng bước ra từ những trang sách của
Nam Cao, thì người ta liền nhận ra rằng, đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người dân cùng ở
một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị
hủy hoại từ nhân tính đến
nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa..
nhưng chị còn được gọi là người. Chí Phèo phải
bán cả diện mạo và linh hồn
của mình đi để trở thành con quỷ
dữ của làng Vũ Đại”.
Trong văn học Việt Nam, có một đề tài mà
nhiều
cây bút đề cập đến, đó là vấn đề miếng ăn:
Ngô Tất
Tố,
Nam Cao, Nguyên Hồng, Tản Đà, Nguyễn Tuân,
Thạch
Lam, Vũ Bằng.. So sánh cách tiếp cận khác nhau về miếng ăn của những cây
bút ấy,
có thể
phát hiện được khá nhiều điều thú vị. Ngô Tất Tố đề cập đến miếng ăn của người nông dân nghèo là để nói đến nạn đói
thê thảm
ở
nông thôn ta ngày trước. Nam Cao nói miếng ăn là nói cái nhục của con người – miếng ăn là
miếng
nhục.
Nguyên Hồng đề cập đến miếng ăn của người dân nghèo lại phát
hiện
ra cái tinh tế, sành sỏi riêng của khẩu vị người dân lao động. Còn
Nguyễn
Tuân lại
tiếp
cận
miếng
ăn không như một thực phẩm, mà như một giá trị văn hoá nghệ thuật tinh
vi “sang trọng”, rất đáng tự hào của một dân tộc có hàng nghìn năm văn hiến.. Nghĩa là từ một đề tài có vẻ hết sức nhỏ mọn là miếng ăn, nhờ so sánh mà ta có thể phát hiện tư tưởng nghệ thuật rất khác
nhau của các tác giả.
Để thấy được đặc sắc của những bức tranh thiên nhiên trong thơ Xuân Diệu, tôi
so sánh với thơ Thế Lữ. Thơ Thế Lữ rất giàu chất họa (ông vốn là một hoạ sĩ). Màu sắc trong
thơ
ông thường rõ ràng, có thể gọi tên ra được:
Ánh
hồng tía rắc ngọc châu trên lá
Trời
trong xanh, chân trời đỏ hây hây..
(…)
Trời cao xanh ngắt, Ô kìa!
Hai
con hạc trắng bay về Bồng Lai..
Nhưng trên những bức tranh
của
Xuân Diệu thì hình ảnh, màu sắc rất khó định danh. Có một cái gì
không rõ đường viền, là một thứ màu sắc, ánh sáng đang chuyển, đang ở dạng biến thái rất khó nắm bắt:
Con
đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu
Lả
lả cành hoang nắng trở chiều
(Xuân
Diệu)
Nhưng chính cái hay, cái tài của thơ Xuân Diệu là ở đó,
đúng như lời bình của tác giả Thi nhân Việt Nam: “.. cảnh
như muốn theo lời thơ mà tan ra. Nó chỉ
mất một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng”. Thơ Xuân Diệu tinh vi là ở đấy. Vận dụng kinh
nghiệm
của
trường
thơ
tượng
trưng
Pháp, đặc biệt là của Baudelaire, Xuân Diệu muốn ghi lại bằng ngôn
ngữ
thơ
ca những
biến
thái (nuances) tinh vi của tạo vật và người. Thậm chí ông còn muốn diễn tả cả những cảm ứng vô
hình trong đôi cánh một con cò trên ruộng:
Mây
biếc về đâu bay gấp gấp,
Con
cò trên ruộng cánh phân vân;
Chim
nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa
lạnh chiều thưa sương xuống dần .
Một trong những vẻ đẹp độc đáo của thơ nghệ thuật Hồ Chí
Minh là màu sắc cổ điển đậm đà. Vì thế, bình
thơ
Bác, người ta thường so sánh với thơ Đường, thơ Tống. Chẳng hạn Xuân Diệu so sánh bài thơ Nhập
Tĩnh Tây huyện ngục của Bác với bài Độc
tọa Kính Đình sơn của Lý Bạch; hoặc như Hoàng Trung Thông so sánh bài Tẩu
Lộ
của
Hồ
Chí Minh với bài Đăng Quán Tước lâu
của
Vương Chi Hoán..
Bình bài thơ Cảnh
khuya của Hồ Chí
Minh tôi cũng lập ý bằng cách so sánh tiếng suối trong
thơ
Bác với
tiếng
suối
trong bài Côn Sơn ca của Nguyễn Trãi: “Ta lắng
nghe một tiếng hát từ xa vọng lại. Không, đó là tiếng
suối ngân nga trong rừng sâu.”
Tiếng
suối trong như tiếng hát xa...
Câu thơ đột nhiên có một
dáng điệu trẻ trung rất thích. Hình như
người xưa thường nói đàn suối,
phách suối, - "Ta nghe suối
chảy như cung đàn cầm" (Nguyễn
Trãi) - chứ không nói suối hát chăng? Một
hiện tượng rất thực, phù hợp với cảnh vật và sinh hoạt
của con người ta lúc bấy
giờ ở chiến khu Việt Bắc. Nhưng lối ví von thoát sáo ấy,
đồng thời lại muốn đưa thẳng trí tưởng tượng của nhà thơ vào cõi mơ
màng: tiếng suối hay giọng người, âm thanh của
tự nhiên hay điệu hát cất lên từ một cõi xa xăm nào giữa
rừng khuya lung linh bóng nguyệt? ...
Trong quá trình tìm hiểu những cách
tân của
thơ
Xuân Diệu, tôi đã nhận ra được một đặc điểm độc đáo của thi pháp tác giả Thơ
thơ
và Gửi hương cho gió bằng cách đối chiếu thơ ông với thơ ca truyền thống: Trong cái vũ trụ nghệ thuật Xuân
Diệu
mà Xuân và Tình làm chủ, "người ta thấy một nguyên tắc
mỹ học được xác định: vẻ đẹp của con người là chuẩn mực của vẻ đẹp thế giới, vẻ đẹp của vũ trụ. Nếu như chúng ta nhớ
rằng trong văn chương xưa, người ta lấy vẻ đẹp của thiên nhiên làm chuẩn
cho vẻ đẹp của con người thì mới thấy nguyên tắc
mỹ học nói trên của Xuân Diệu là cả một cuộc đổi mới đáng kể trong thơ ca Việt Nam hiện đại".
Thơ xưa viết về người đẹp thì nào là mặt
hoa, tóc mây, mày liễu, làn thu thuỷ, nét xuân sơn...
Bây giờ Xuân Diệu so sánh ngược
lại:
... Lá liễu dài như một nét mi...
... Trăng vú mộng
của muôn đời thi sĩ...
... Hơi gió thổi như ngực người yêu đến...
... Mây đa tình như
thi sĩ đời xưa...
Quan niệm mỹ học ấy đã giúp ông sáng tạo
nên một câu thơ vào loại tuyệt vời của nền thi ca Việt
Nam
hiện đại:
Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần[1]
...v.v và v.v...
N.Đ.M
(Còn tiếp)