1) Thân bài
Khoan nói về các phần mở đầu và kết luận, hãy
đi thẳng vào phần thân bài là phần có
ý nghĩa quyết định nhất đối với nội dung và giá trị một bài văn.
Về bố cục của thân bài, tôi rất tâm đắc với
con số ba (3). Bố cục ba phần (gồm ba luận điểm) là bố cục chắc chắn nhất, đẹp
nhất. Không phải ngẫu nhiên mà con số 3 là con số "thiêng" của hầu
hết các tôn giáo phương Đông và phương Tây. Cho đến cả những thuật bói toán,
phù chú của nhiều dân tộc trên thế giới cũng rất tin ở con số 3. Ở ta, dân gian
thường nói "vững như kiềng ba chân".
Bố cục ba phần quả là vững chắc thật. Hai phần thì không đứng được. Bốn, năm
phần thì không chặt chẽ lắm, sức tổng hợp, khái quát của người viết chưa cao.
Nói về sự nghiệp sáng tác của một nhà văn,
bố cục ba phần là cổ điển nhất: quan điểm sáng tác; quá trình sáng tác; phong
cách nghệ thuật. Suy nghĩ về văn học nước ta thời kỳ từ đầu thế kỷ XX đến 1945,
tôi rút ra ba đặc điểm sau đây cho là đẹp nhất:
1.
Nền văn học được hiện đại hóa
2.
Tốc độ phát triển hết sức mau lẹ
3.
Nền văn học phân hóa phức tạp thành nhiều bộ phận, trào lưu, trường phái khác
nhau...
Điểm 1 là nói diện mạo; điểm 2, nói tốc độ
phát triển; điểm 3, nói cấu trúc của nền văn học.
Tìm hiểu thời kỳ văn học từ sau Cách mạng tháng
Tám 1945 đến 1975, tôi cũng thấy ba đặc điểm sau đây thể hiện tính khái quát
tổng hợp cao nhất.
1.
Phục vụ chính trị, cổ vũ chiến đấu.
2.
Hướng về đại chúng, trước hết là công nông binh.
3.
Chủ yếu được sáng tác theo khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn.
Điểm 1 nói mục đích; điểm 2 nói đối tượng;
điểm 3 nói thi pháp.
Tất nhiên cũng có trường hợp tôi không sao
khái quát được nội dung bài viết của mình thành 3 luận điểm. Ở những trường hợp
như thế, dù bài văn cuối cùng phải viết ra với 4, 5 hay 6 luận điểm ở thân bài,
tôi thực tình vẫn không hài lòng lắm. Vì thế tôi rất vui, khi khái quát tư
tưởng mỹ học của Bác Hồ (qua sáng tác thơ nghệ thuật) thành 3 điểm:
1.
Cuộc sống của nhân dân trong cõi đời trần tục, trần thế này là đẹp
nhất.
2.
Như sự sống, cái đẹp không máy móc, chết cứng. Nó luôn luôn vận động hướng về
sự sống, ánh sáng và tương lai.
3.
Cái đẹp là sự kết hợp hài hòa cái cổ điển, cái truyền thống và cái hiện đại,
thời đại, từ nội dung đến hình thức, từ tư tưởng đến nghệ thuật.
Về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân trước
Cách mạng tháng Tám, tôi xác định 3 điểm là 3 khía cạnh thể hiện cái ngông
của nhà văn này:
1.
Tiếp cận sự vật nghiêng về phương diện văn hóa, nghệ thuật, phương diện thẩm
mỹ; tiếp cận con người nghiêng về phương diện tài hoa nghệ sĩ.
2.
Quan niệm cái đẹp là những hiện tượng đập mạnh vào giác quan nghệ sĩ.
3.
Sở trường về thể văn "độc
tấu" (tức tùy bút) với nhân vật "tôi" phóng túng, độc đáo, tài hoa.
Về thơ Xuân Diệu, tôi khái quát thành 3
điểm, thể hiện niềm khát khao giao cảm với đời của thi sĩ:
1.
Khẳng định cái tôi cá nhân trong quan hệ gắn bó với đời.
2.
Đưa tình yêu thật sự là tình yêu vào thơ ca Việt Nam.
3.
Thực hiện một cách tân táo bạo về thi pháp: coi con người giữa tuổi trẻ và tình
yêu là chuẩn mực của cái đẹp.
Nam Cao là nhà văn luôn luôn băn khuăn về
vấn đề nhân phẩm, nhân tính của con người trong xã hội cũ bị hủy hoại vì miếng
cơm manh áo và vì cái chất "hèn" đã thấm sâu vào trong máu của những
thân phận nô lệ. Muốn nắm được tư tưởng ấy của Nam Cao, phải hiểu thế nào là
nhân phẩm, nhân tính trong quan niệm của nhà văn. Qua tìm hiểu các tác phẩm của
nhà văn, đặc biệt là qua hai tác phẩm Sống mòn và Đời thừa, tôi quy quan
niệm về nhân tính, nhân phẩm của Nam Cao vào 3 điểm:
1.
Phải có một lý tưởng xã hội cao cả
2.
Phải có tình đồng loại.
3.
Phải có trí thức, có văn hóa để có thể sống một cách có ý thức và để hưởng cái
hạnh phúc rất trí tuệ của con người là biết thưởng thức vẻ đẹp của văn chương
nghệ thuật.
Tóm lại, viết một bài văn, thành hay bại,
chủ yếu do phần thân bài quyết định. Chuẩn bị viết một bài văn, trước hết là
chuẩn bị nội dung cái thân bài ấy. Sau khi đã tìm được một khối lượng ý tự cho
là đủ để chứa đầy phần thân bài, thì công việc quyết định nhất là tổ chức các ý
lớn hay nhỏ, chính hay phụ đó lại thành những luận điểm có tính đồng đẳng, đồng
hạng. Bố cục của phần thân bài văn là sự sắp xếp các ý đó theo một trật tự lô
gic chặt chẽ. Nếu đạt được 3 ý, 3 phần là đẹp nhất. Vũ trụ có "tam
tài" - "Thiên - địa - nhân", Phật có tam bảo, đạo Kitô có
chúa ba ngôi. Tam vị nhất thể. Con số ba vẫn là sự khái quát thế giới chặt chẽ
nhất, hoàn hảo nhất.
2) Mở đầu
Đối với văn nghị luận thì mở đầu tức là đặt
ra vấn đề mà bài văn sẽ bàn bạc và giải quyết. Điều này không khó khăn gì lắm
đối với người học trò khi viết một bài tập làm văn. Vì vấn đề đã có sẵn ở đề
bài rồi. Nhưng đối với người nghiên cứu, phê bình văn học thì đây lại là vấn đề
khó. Bởi vì đặt vấn đề là phát hiện ra một khoảng trống nào đó mà khoa học chưa
bù lấp được. Chẳng những phát hiện mà còn giải quyết được nữa - bài văn ra đời
chính là vì mục đích ấy.
Cho nên đối với một bài tiểu luận, phê bình
văn học, mở đầu hay nhất, hấp dẫn nhất, là đặt ra được một vấn đề mới mẻ, có ý
nghĩa sâu sắc và hấp dẫn. Mở đầu hay hay không, điều quyết định là vấn đề đặt
ra có hay hay không.
Nhưng thôi, trong phạm vi bài này, không
bàn sâu vào công việc của nhà nghiên cứu, chỉ xin nêu lên một số kinh nghiệm về
cách đặt vấn đề hay cách mở đầu một bài văn.
Trong bài phê bình tập truyện ngắn Hoa
và thép của Bùi Hiển, tôi mở đầu bằng cách phê phán cách trình bày cái bìa
của tác phẩm:
"Người
trình bày cái bìa sách cho Bùi Hiển có lẽ chưa đọc kỹ những truyện của anh. Màu
sắc xanh đỏ tươi quá, có phần hơi sặc sỡ. Bút pháp Bùi Hiển không phải như vậy.
Đúng là anh có nói đến hoa - từ đầu đến cuối toàn là thép và hoa. Nhưng đâu
phải hoa hường, hoa cúc (..) phô trương rực rỡ. Anh chỉ thích hoa ngâu, hoa sói
"hữu hương vô sắc" (...) Những nhân vật của Bùi Hiển đúng là như thế:
hoa và thép của tâm hồn bao giờ cũng ẩn kín (...) Anh chọn toàn những con người
bình thường, thậm chí có vẻ tầm thường nữa để tìm hiểu, thăm dò. Ở truyện này,
anh phát hiện ra hoa và thép ở một anh chàng bề ngoài dường như hết sức xa lạ
đối với hoa và thép (Cái mũ) ở truyện kia, anh lại tìm ra thép ở những cô gái
tưởng chừng sinh ra chỉ để là hoa (Những đêm, Nhớ về một mùa thị chín...), ở
truyện khác, trái lại, anh lại khám phá ra hoa ở một conngười mà dáng
vóc, tướng mạo khiến người ta cứ lầm tưởng chỉ có thể là thép (Hai giọt nước
mắt của tiểu đội trưởng Bích Hường)...[1]
Đây là cách mở bài gián tiếp, mượn cớ phê
bình người vẽ bìa sách mà nêu lên những vấn đề cốt lõi của bài viết: chủ đề,
thế giới nhân vật và phong cách nghệ thuật của tập truyện Hoa và thép
của Bùi Hiển.
Trong bài Quang Dũng, người thơ ,
tôi mở đầu bằng cách dẫn lời hai nhà văn Nguyễn Tuân và Nguyên Hồng:
"Nguyễn Tuân có lần nói: "Tôi thích hai chữ thi nhân, chứ không
thích hai chữ thi sĩ. Thi sĩ chỉ là anh có nghề làm thơ. Còn thi nhân là ngưòi
thơ. Cái đẹp, cái sang, chất thơ ở ngay trong bản chất của nhân cách".
Nguyên Hồng thì lại nói với tôi thế này: "Thầy
giáo cứ để ý mà xem, mấy thằng văn xuôi chúng tôi đều dại dột cả cho nên cứ vấp
luôn. Còn mấy anh làm thơ thì anh nào cũng khôn ngoan cả".
Ý kiến Nguyên Hồng thoạt nghe tưởng như cố
tình nói ngược. Thế mà ngẫm ra thấy cũng đúng. Nhưng có lẽ chỉ đúng một nửa. Có
những thi sĩ quả là khôn ngoan quá quắt lắm. Nhưng cũng có những người lại chân
thật như là trẻ con. Chân thật đến mức có thể gọi là dại dột. Vì họ là thi
nhân, là người thơ. Quang Dũng là một người như thế [2].
Đây là bài tôi dựng chân dung Quang Dũng.
Tôi cho rằng bản chất con người và tài năng của Quang Dũng xét đến cùng cũng là
ở hai chữ chân thật. Vấn đề đặt ra và giải quyết trong bài viết là như thế.
Nhưng để khắc sâu ấn tượng và để làm sáng giá cái chân thật rất mực của Quang
Dũng, tôi phải mượn hai chữ thi nhân rất sang của Nguyễn Tuân, đồng thời
phân biệt Quang Dũng với vô số những người làm thơ khôn ngoan róc đời chỉ đáng
gọi là thi sĩ theo nhận xét độc đáo của Nguyên Hồng.
Trong bài dựng chân dung Nguyên Ngọc, tôi
lại mở đầu bằng tự so sánh mình với tác giả Đất nước đứng lên, Rừng Xà nu
mà tôi cho là một tâm hồn rất lãng mạn. Tôi tự nhận là một người bình thường
khác với Nguyên Ngọc là con người của lý tưởng.
"Tôi quen
Nguyên Ngọc đã lâu, dễ đến hai chục năm. Tính anh phóng khoáng, bia rượu khá.
Chúng tôi bia bọt với nhau đã nhiều lần (...) ấy thế mà không hiểu sao tôi cứ
cảm thấy giữa anh và tôi có một cái gì như vẫn có một khoảng cách (...) Có lẽ
vì anh theo đuổi một cái gì đó rất cao, nên có những nguyên tắc sống rất
nghiêm. Còn tôi thì sống thế nào cũng xong. Có phần dễ dãi với mình và cũng dễ
mềm lòng trước những lời nói khéo, nói ngọt tuy biết rằng chưa hẳn đã là chân
thật. Nghĩa là sống thiếu nguyên tắc. Cái yêu, cái ghét của anh thì khác, phân
minh lắm và không dễ thay đổi, lắm lúc dường như là cố chấp. Vừa rồi Ban chấp
hành Hội nhà văn cấp cho anh mấy triệu gọi là tiền bồi dưỡng sáng tác. Anh
không nhận. Viết gì đã có nhuận bút, còn tiền kia là của nhân dân, anh nghĩ thế
và dứt khoát từ chối. Tôi thì tôi nhận ngay và tiêu luôn. Đấy cái gọi là khoảng
cách giưã tôi và anh là ở đấy chăng?"[3].
Đặt vấn đề như thế vừa nêu được chỗ hay của
Nguyên Ngọc, vừa nói được chỗ dở của anh (cố chấp). Nhưng nói chung là ngợi ca
chất lý tưởng, chất lãng mạn của con người này trong tương quan so sánh với chỗ
"tầm thường" của mình. Mở bài như thế thì ai có thể chê trách được!
Rất khiêm tốn mà!
Nói chung mở đầu các bài viết, tôi đặc biệt
chú ý đến việc tìm cho mình
một cái giọng thích hợp và khơi gợi một
không khí thích hợp. Viết về Hồ Chủ Tịch, tất nhiên phải có giọng trang nghiêm
thành kính:
"Người xưa
thường nói, văn chương của những bậc lấy việc hành đạo, cứu đời làm mục đích,
tất cũng rộng lớn, phong phú như cuộc đời. Đó không phải là thứ nghệ thuật của
bồn hoa, chậu cảnh, mà là vẻ đẹp của đồng xanh nghìn mẫu, nước bạc muôn trùng,
phong cách văn thơ Hồ Chủ Tịch là như thế" (Bác sống như
trời đất của ta)
Nhưng viết về thơ Trần Đăng Khoa thì lại
phải chuyển sang giọng khác. Cũng là ca ngợi, nhưng ngợi ca một cậu bé (lúc này
Khoa mới 15,16 tuổi):
"Đã lâu tôi
không đọc thơ Khoa, cũng không được gặp Khoa, thành ra tôi không khỏi ngạc
nhiên khi thấy em viết như thế này về chị Mạc Thị Bưởi;
Cô bỗng thấy hiện lên
Giọng đồng chí bí thư huyện ủy trang
nghiêm:
- Trên các chiến trường
Giặc Pháp đang bị động..."
Hay về thằng Tây đồn Coóc:
Ồ nhỉ? Có sao đâu
Lòng hắn hiu hiu nghĩ về nước Pháp
Mẹ hắn thương con, mái đầu sớm bạc
Vợ hắn nhớ chồng, mắt biếc nước sông
Ranh...
Thế là Khoa đã
lớn thật rồi! Mới ngày nào còn sửng sốt về tài thơ của em bé tám, chín tuổi.
Bây giờ em đã nói toàn những chuyện người lớn, chuyện chính trị, chuyện thời
đại, lại còn bàn luận triết lý nữa. Mà ai bảo không đường hoàng, chững chạc! ("Khúc hát người anh hùng" hay
"tiếng hát quê hương")[4].
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn
tôi rất yêu quý. Khi anh ốm, tôi có đến thăm anh mấy lần. Được tin anh mất, tôi
vô cùng thương tiếc. Tạp chí Văn nghệ Quân đội bảo tôi viết một bài về anh. ấy
là bài "Những ngày cuối cùng gặp Nguyễn Minh Châu". Mở đầu bài
viết tôi gợi lại những kỷ niệm với Nguyễn Minh Châu trong những ngày cuối của
anh, tất nhiên với giọng thương tiếc đau đớn:
"Vài năm
lại đây tôi hay đến Nguyễn Minh Châu. Vì anh dễ tính và vui chuyện. Nơi anh ở
lại thuận đường tôi đi từ Hà Nội về nhà. Mới mùng ba Tết vừa rồi, tôi đến anh,
hai anh em ngồi nói chuyện sôi nổi về thời sự văn học, thế mà bây giờ! Cuộc
sống chúng ta sao có lắm cái đau đớn làm vậy! Thời gian anh vào Nam chữa bệnh, tôi
không đến thăm anh được. Nhưng từ khi anh trở lại Hà Nội, lúc ở Bạch Mai, lúc ở
108, tôi đến anh luôn. Trước cái chết của một nhà văn, người ta thường nghĩ đến
sự bất tử của người cầm bút. Ôi thời gian, thời gian sẽ vùi lấp tất cả nếu như
người nằm xuống không để lại chút gì trong lòng người. Mà có được một chút gì
như thế thật khó vậy thay!"[5].
Thương xót người thân qua đời, người ta
thường kể lể. Tôi tự nhiên cũng có giọng kể lể. Trước cái chết người ta thường
nghĩ đến thời gian sẽ xóa đi tất cả và đặt vấn đề: người chết liệu còn để lại
cái gì có thể thắng được thời gian? Tôi cũng nghĩ như thế trước cái chết của
Nguyễn Minh Châu. Lời mở đầu đến với tôi một cách tự nhiên theo quy luật tình
cảm của mình, không hề có sự bố trí sắp đặt gì.
NĐM
( Còn nữa)
[1] Nhà
văn tư tưởng và phong cách. Nxb tác phẩm mới - 1979,
[2] Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách
(Sách đã dẫn)
[3] Nhà văn Việt Nam hiện đại: Chân dung và phong cách (Sách
đã dẫn)
[4] Nhà
văn, tư tưởng và phong cách (Sách đã dẫn)
[5] Nhà
văn, tư tưởng và phong cách (Sách đã dẫn)