b. Tạo hơi văn, giọng văn phù hợp.
Hơi văn, giọng văn
phải phù hợp với nội dung truyền đạt. Chẳng hạn diễn đạt khí thế hành quân sôi
nổi trong thơ Chính Hữu thì từ ngữ phải khỏe, phải mạnh, câu phải ngắn, nhịp
văn phải dồn dập: "Chính Hữu có một hơi thơ sôi nổi nhiệt tình, khỏe,
phăng phăng, hăm hở - một hình ảnh xuyên suốt: Đi, Hành quân, Tiến công...Thơ
như thế thì không thể trói vào, giam vào trong lục bát, thất ngôn hay bất cứ
điệu thơ có khuôn phép nhất định nào. Nó phải nói lời tự do. Vần không quan
trọng. Nhịp thơ quyết định. Nhịp điệu phải có sức thôi thúc mạnh. Và mỗi câu
phải một khẩu hiệu, mỗi chữ phải đúc lại để vang xa...
Đây là thơ hành quân,
là những khúc quân hành. Một hình ảnh cũng thường trở đi trở lại trong thơ
Chính Hữu: hình ảnh ngọn đèn. Nhưng là "ngọn đèn đứng gác", là con
mắt không ngủ, là tâm hồn tỉnh thức. Tỉnh thức để thúc giục lên đường, kêu gọi
hành quân:
Đi nhanh, đi nhanh
Chiến trường đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc[1]
Còn đây là khí thế hừng hực căm thù của nhân
dân Hà Nội trong một ngày lịch sử: “Hà Nội giải tù Mỹ qua phố Hà Nội”.
Phải diễn đạt làm sao cho đúng với hơi văn của Nguyễn Tuân.
“Chà! Cái ngày Hà Nội giải tù Mỹ thật
là một ngày không quên được! Một không khí trang nghiêm lịch sử, một khí thế
bừng bừng của thủ đô căm hờn như bốc dựng lên với sự kiện nước sông Hồng trong
những ngày cao trào cách mạng, được nhắc đến từ nhà Bảo tàng lịch sử: Hà Nội
trị thủy và trị Mỹ! Hà Nội cũng là lớp lớp thủy triều, bao đời nay từng dồn
Pháp, đuổi Nhật, giờ đây lại đùng đùng những “cơn sóng dữ” muốn
cuốn phăng đi “những rơm rác Hoa Kỳ”[2].
Có những nội dung lại cần đến giọng trữ
tình xót xa, tha thiết. Trường hợp này phải tránh những từ ngữ diêm dúa và ồn
ào. Nên sử dụng nhiều thanh bằng, nhất là thanh trầm bình với những từ gợi cảm,
quý mến, xót thương.
Đây là những dòng tôi bình về đoạn thơ của
Trần Đăng Khoa viết về lòng yêu quê hương của chị Mạc Thị Bưởi khi giặc giải
chị trở về làng trước khi giết chị: “Khoa đã huy động những gì là sâu sắc
nhất, là máu thịt nhất đã gắn bó em với làng xóm quê hương và do đó, với chị
Bưởi - để làm điểm tựa cho trí tưởng tượng của mình. Ta hiểu vì sao thơ Khoa
càng trở nên đằm thắm thiết tha hơn và nhân vật anh hùng cũng trở nên đậm nét
và phong phú hơn, khi Khoa kính cẩn theo dõi bước chân chị Bưởi từ bốt giặc trở
về làng. Người con gái tuyệt vời ấy đã tận dụng những giờ phút cuối cùng của
đời mình để đánh giặc và nhờ thế mà có dịp gặp lại quê hương trước khi ngã
xuống:
Khi bàn chân đặt lên đất của làng
Bàn chân tự biết
Hơi mát rất riêng ngấm vào da thịt
Và nhịp tim bỗng đập chẳng bình thường
“Đây là quê hương. Đây là quê hương”
Cả cơ thể rung lên điều ấy.
Và như thế là Khoa đã tìm được cách khơi
thẳng vào cái mạch chủ yếu nhất, dồi dào nhất, đặc sắc nhất của thơ em để chứng
minh cho cái em gọi là “cả
cơ thể rung lên điều ấy” của Mạc Thị Bưởi:
Cô đã sống ở đây
Những đêm mưa rào. Những ngày nắng cháy
Nắng ngời ngời mặt lá ngọn cây đa
Mưa ù ù trên sông nghe rất xa.
Cứ như thế, lòng yêu quê hương thắm thiết
và lòng biết ơn sâu nặng đối với người anh hùng đã hy sinh cho quê hương ấy
đã bắc những nhịp cầu thời gian vững chắc cho thơ Khoa trở về với quá khứ, trở
về với chị Bưởi, người con gái nông thôn cho đến lúc chết, tâm hồn vẫn còn muốn
níu chặt lấy quê hương mình, níu chặt lấy những gì vì nó, chị đã không tiếc máu
xương”[3].
Có khi nội dung lại đòi hỏi một chất giọng
rầu rầu tỏ ra cảm thông với một tâm sự
không vui. Trường hợp này, nhịp văn phải chậm, từng câu ngắn, thủng thẳng. Và
cũng nên dùng nhiều thanh trầm bình. Đây là mấy dòng tôi viết về chân dung
Nguyễn Đình Thi: ông “ngồi một mình, im lặng, đầu cúi như nhẫn nhục, chịu
đựng một cái gì. Nhẫn nhục mà kiêu ngạo: đời nó thế, biết làm sao được, đành
phải chấp nhận nó vậy (..) Công tác lãnh đạo đã ngốn của ông biết bao thời gian
và tâm huyết. Mà lãnh đạo cái Hội nhà văn nào có nhẹ nhàng gì. Tôi không sao
quên được cái dáng đi vất vả tất bật của ông, cái thái độ cam chịu và cái tài
chèo chống của ông trong những ngày sôi sục của Đại hội nhà văn lần thứ tư. Tôi
chắc những ngày ấy ông buồn lắm. Bọn trẻ bây giờ phức tạp quá, lắm kẻ nhố nhăng
và ngỗ nghịch quá. Mà học vấn thì ít. Đọc ít quá. Chả biết Căng biết Nít-sơ là
gì. Không có học thức thì làm sao phát huy được tài năng, làm sao gây dựng sự
nghiệp cho ra trò. Tội quá! Thương quá!”[4]
Đây là cách đặt mình vào tâm lý của chủ thể
sáng tác, nói bằng ngôn ngữ của chính ông ta. Phải am hiểu gan ruột của đối
tượng mới có thể dùng thủ pháp này.
Có trường hợp phải dùng giọng say, bốc mới
chuyển tải được nội dung ý tứ của mình. Trường hợp này có thể dùng những từ cảm
thán như Ôi, Chao ôi, Chà, Trời ơi,.. “Ôi, Quang Dũng! Người tráng
sĩ, đấng trượng phu, từng hiên ngang “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”..
; Chà! Có những thằng tướng quỷ lộ ra ngay cả thần sắc, diện mạo, như thằng
quan hai Cơ lác kia với bộ mặt như cái “mặt nạ”, trên đó “cứ
xanh lè hai cục mắt Mỹ..”; “Chao ôi! Vậy thì như thế nào mới là
lành mạnh?”; “Trời ơi, cái đói và miếng ăn mà bảo là chuyện nhỏ
ư?”..v.v..
Tất nhiên không nên lạm dụng những từ cảm
thán như thế, vì rất dễ gây cảm giác giả tạo, lên gân.
Có những trường hợp phải lấy giọng thân mật
suồng sã thì mới hợp. Trường hợp này nên dùng những từ ngữ nôm na, những khẩu
ngữ đời thường như vớ vẩn, Xôm trò, “Văn mình vợ người”; chẳng
nói oan nói ức cho thằng nào con nào; khó vậy thay! Dễ ợt; té ra là thế này,
thế kia; tôi với anh ta vẫn bia bọt lu bù; thằng cha thế mà tình tứ đáo để; kẻ
đầu têu ra cái lý thuyết ấy hình như là nhà triết học Nitsơ..v.v..
Có khi lại phải lấy giọng trang trọng, đĩnh
đạc. Trường hợp này nên khai thác kho từ Hán Việt, khai thác những thành ngữ
Hán Việt có màu sắc cổ kính, cổ điển.
Tôi có một cái thú là học chữ trong từ điển
Hán Việt. Người xưa chữ nghĩa rất đúc, tính hàm súc cao, chắc khỏe như khắc vào
đá, hình ảnh lại đẹp, có một cái gì đài các, sang trọng, âm hưởng rất thích.
Nói chung mỗi bài văn có một giọng chủ.
Nhưng như thế không phải từ đầu chí cuối chỉ có một giọng. Văn chương kỵ nhất
là sự đơn điệu. Vì thế nên có nhiều giọng chuyển đổi lẫn nhau như trong một bản
hòa tấu của nhiều nhạc cụ vậy.
Bên cạnh mấy giọng đã dẫn ra trên đây, tôi
muốn kể thêm một chất giọng nữa mà riêng tôi rất thích. Ấy là giọng mỉa mai
bóng gió pha chút gai góc. Bài văn có thêm giọng này như có thêm chất muối đậm
đà hơn, sắc sảo hơn, như có che dấu một nụ cười châm chọc hóm hỉnh sau những
dòng chữ. Đây thường là chỗ người viết trực tiếp tỏ bày tư tưởng của mình, sự
yêu ghét, khinh trọng của mình với bạn đọc.
Chẳng biết bạn đọc có cho những đoạn văn
trích sau đây là có chất giọng nói trên không:
“...thử nghĩ mà xem, con người không
biết sợ cái gì trên đời này cả, liệu có phải là con người không? Cái gì cũng “vô
uý”, cũng tỏ thái độ sắt thép, nghĩa là không biết mềm lòng trước bất cứ
một cái gì, đấy là loại quỷ sứ chứ đâu phải là người! Chữ người tử tù
của Nguyễn Tuân dạy cho người ta hiểu rằng, muốn nên người, phải biết kính sợ
ba điều này: Cái tài, cái đẹp và cái thiên tính tốt của con người (thiên
lương). Vậy kẻ nào không biết sợ cái gì hết, đó là loài quỷ sứ. Loại người này,
thực ra rất hiếm hoi, hay nói đúng hơn, không thể có được. Nhưng loại người sau
đây thì chắc không ít: sợ rất nhiều thứ, nhất là quyền thế và đồng tiền, nhưng
đối với cái tài, cái đẹp, cái thiên lương thì lại không biết sợ, thậm chí sẵn
sàng lăng mạ, giầy xéo. Đấy là hạng người hèn hạ nhất, thô bỉ nhất, đồi bại
nhất”[5].
“Cách đây vài chục năm, có một vị đàn
anh trong nghề dạy tôi thế này: chúng ta là những con chuột, muốn an toàn phải
đào nhiều hang. Mất hang này, ta chạy vào hang khác. Nguyễn Khải có cái hang
sáng tác. Có biến, anh chui tọt vào ngay. Lý ra đã là người viết thì ai chả
phải đào cho mình cái hang sáng tác. Nhưng đào có dễ đâu. Cho nên có những
người mang danh sáng tác nhưng lại cứ phải đào cho mình những cái hang khác”
“Có một nhà nghiên cứu Thơ Mới đã phê
phán câu thơ này là không được lành mạnh (Câu thơ Xuân Diệu; “Tháng
giêng ngon như một cặp môi gần”). Chao ôi! Vậy thì như thế nào mới là
lành mạnh? Tôi nghĩ chỉ có những tâm hồn chưa được lành mạnh mới không biết
kính trọng câu thơ đẹp một cách thật là lành mạnh và cường tráng này”..v.v..[6]
c.
Học hỏi và tích lũy vốn phong phú về các kiểu câu, các từ ngữ.
Xây dựng một bài văn, một đoạn văn, không
nên chỉ dùng một kiểu câu. Nếu không có dụng ý đặc biệt thì không nên dùng liên
tiếp một dạng cú pháp gây cảm giác đơn điệu. Muốn thế phải có một cái kho câu,
chữ các loại thật phong phú và đa dạng. Xây dựng cái kho ấy bằng cách nào? Chỉ
có một cách là học, học trong sách vở, học trong giao tiếp, nghe ngóng, học
trong đời sống. Vấn đề là phải có ý thức học tập thì mới tìm được nhiều câu,
chữ đáng học để thu lượm, tích luỹ. Có khi học ở sách Pháp. Chẳng hạn tôi học
được những chữ như imagination synthétique (sức tưởng tượng tổng hợp) để
dùng vào bài viết về phong cách nghệ thuật Vũ Trọng Phụng: grisailles
quotidiennes (Cái hàng ngày xám xịt) để dùng vào bài viết Sống
mòn của Nam Cao; champ esthétique (trường liên tưởng thẩm mỹ) để
dùng vào bài viết về cơ chế của xúc cảm thẩm mỹ; idée poétique (tư tưởng
nghệ thuật) để dùng vào bài viết về phương pháp nghiên cứu nhà văn; épisode
prophétique (chi tiết tiên tri dự báo) để dùng vào bài viết về tư tưởng Vũ
Trọng Phụng .v.v... Tất nhiên học trong sách Việt nhiều hơn, nhất là trong sách
của Nguyễn Tuân, Tô Hoài, Nam Cao...
Một lần, nhân đọc bài Thời và thơ Tú
Xương của Nguyễn Tuân, tôi vớ được chữ “giẫy nẩy” ông dùng để tả màu
vàng những buồng chuối ngự Nam Định đựng trong những sọt lá chuối khô. Tôi bèn
dùng vào trường hợp văn Nguyễn Huy Thiệp, cụ thể là đoạn bình luận về ngôn ngữ
sinh động nhưng rất tục của một bà lão nông dân trong truyện. Những bài học
nông thôn: đó “là ngôn ngữ của sự sống, tuy lấm láp bùn đất nhưng cứ
tươi rói và giẫy nẩy lên trên những trang sách”. Trong một bài viết về
Nguyễn Khải tôi lại dùng cụm từ “Khoán
chui tư tưởng”, “Khoán chui ý nghĩ” mượn trong kho ngôn từ của quản
lý hợp tác xã nông nghiệp.
“Nguyễn Khải giống như một anh cán bộ xã
hay huyện gì đó dám tổ chức khoán chui và khoán chui trót lọt trong thời kỳ hợp
tác xã nông nghiệp còn là một chân lý không ai được bàn cãi. Nhưng “khoán
chui” ý nghĩ thì phải rào đón cho kín..”
Tóm lại học câu, học chữ ở khắp mọi nơi,
mọi chỗ, không biết thế nào mà nói cho hết được.
Người ta nói người viết văn là phu chữ, thợ
chữ, nghề văn là nghề của chữ, là trò chơi của chữ .v.v... Không có một kho câu,
chữ ra hồn thì làm ăn thế nào được.
7. Đọc lại bài viết và sửa
văn.
Ở người khác thế nào thì không biết, riêng
tôi có một cái thú là khi viết xong bài văn, ngồi đọc lại, duyệt lại để sửa
sang câu, chữ của mình.
Khâu cuối cùng này thì chủ yếu không phải
là sửa nội dung, sửa ý lớn ý nhỏ, cũng không phải là sửa bố cục, kết cấu bài
văn nữa mà chủ yếu là sửa câu, sửa chữ, sao cho chính xác và hay. Phải tự mình
đọc thầm câu văn lên, lắng nghe cho kỹ, thấy có chỗ nào từ trùng lặp thì phải
tìm cách thay bằng một từ đồng nghĩa khác (trừ trường hợp từ cố ý để đạt một
hiệu quả thẩm mỹ nào đấy). Đặc biệt phải lấy cái tai thẩm âm, tai âm nhạc của
mình mà sửa câu chọn chữ cho âm điệu dễ lọt tai.
Kinh nghiệm của tôi và chắc cũng của nhiều
cây bút khác: viết xong không nên đọc lại ngay. Tốt nhất là để một, hai ngày
sau hãy đọc lại. Như thế được bình tâm tĩnh trí hơn. Và nhờ có khoảng cách thời
gian đó, có thể khách thể hóa bài văn của mình để đánh giá nó một cách chính
xác.
N.Đ.M
(Hết)