CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Lý luận - Phê bình

LẬP Ý CHO BÀI VIẾT (3&4)

Thứ ba ngày 5 tháng 6 năm 2012 4:32 AM

3. Ý kiến được xây dựng từ những phản đề 

Trong nghiên cứu văn học, nhiều khi ý kiến nảy sinh và hình thành nhờ nhu cầu phản bác một luận điểm nào đấy.

Chúng ta biết rằng, từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986), đất nước bước vào công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn diện. Nói riêng trong lĩnh vực văn học, nhiều hiện tượng văn học cần được đánh giá lại theo tinh thần đổi mới, trong đó có trào lưu văn học lãng mạn chủ nghĩa giai đoạn 1930 - 1945.

Theo quan niệm cũ, trào lưu văn học này là hết sức tiêu cực, độc hại. Nó đánh lạc hướng thanh niên ra khỏi con đường cách mạng mà Đảng đã vạch ra từ 1930. Nghĩa là về tác dụng khách quan ( có thể ngoài ý muốn của các tác giả), nó có tính chất phản động. Thực ra thì không phải vậy. Vì hầu hết các cây bút lãng mạn đều rất hăng hái tham gia cách mạng ngay khi cuộc khởi nghĩa tháng Tám thành công. Riêng Xuân Diệu, Huy Cận thì đã tham gia từ trước đấy nữa.

Vậy thì phải phản bác lại quan niệm cũ nói trên như thế nào đây?

Trong quá trình suy nghĩ về vấn đề này, tôi tình cờ đọc được một câu nói của một nhân vật trong cuốn tiểu thuyết Cha và Con của nhà văn Nga I.Tuôcghênhép như sau: " Anh bn có thấy tôi đang làm gì đây không? Té ra va li của tôi rỗng tuếch, tôi đang phải nhét cỏ khô vào. Chiếc va li trường đời của chúng ta cũng thế đấy, ta phải nhét vào bất cứ thứ gì, cốt sao cho nó khỏi trống rỗng".

Câu nói này đã gợi ý cho tôi hiểu được tâm lý xã hội của các thế hệ thanh niên trí thức thời Pháp thuộc.

Hồi ấy Đảng hoạt động bí mật, cách mạng là bất hợp pháp. Trong hoàn cảnh ấy có phải ai cũng có thể tiếp nhận được lý tưởng của Đảng đâu. Trong khi đó thì tâm hồn con người ta không bao giờ chịu để trống không cả. Quy luật tâm lý của con người ta, nhất là của thanh niên là như vậy. Không tiếp nhận được lý tưởng của Đảng thì họ cũng phải "nhét" cái gì vào "hành lý tâm hồn" của mình chứ. - dù là phải "nhét cỏ khô" vào đấy. Đương thời bọn thực dân và tay sai chỉ mong muốn họ "nhét" những tư tưởng nô dịch, chống cộng, tư tưởng sùng bái Đại Pháp, coi Tổ quốc là nước Pháp, coi nòi giống mình là người Gô-loa... Cố đạo Puyginiê đã từng mơ ước như thế khi vạch ra chương trình đồng hóa dân Việt Nam để cuối cùng biến nước ta thành "mt nước Pháp ở hải ngoại". Nhưng do tinh thần yêu nước không đến nỗi nguội lạnh, họ đã không chịu "nhét" những "ca" ấy vào tâm hồn mình, dù chúng được Nhà nước thực dân truyền bá hằng ngày bằng mọi phương tiện thông tin và bằng nội dung chương trình của các nhà trường Pháp - Việt. Họ đã "nhét" Thơ mới lãng mạn vào đấy cùng với những Hn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân, Đôi bạn, Gió đầu mùa, Vang bóng một thời, Thiếu quê hương... (ở đây chưa nói đến các tác phẩm văn học hiện thực).

Họ làm như thế, trong hoàn cảnh ấy, có nên xem là có hại cho cách mạng không? Những tác phẩm ấy đúng là không kêu gọi tranh đấu, không tuyên truyền cộng sản, nhưng cũng không bán nước, không ca ngợi kẻ xâm lược. ít ra nó cũng giúp độc giả thêm yêu mảnh đất đã sinh ra mình, biết yêu tiếng mẹ đẻ, biết mất nước là buồn, là đau, biết Thiếu quê hương là bơ vơ tủi nhục... Như vậy không thể nói những tác phẩm văn chương ấy đã đầu độc tâm hồn con người, là đẩy thanh niên xa rời con đường cách mạng. Trái lại, xét ở chừng mực nào đấy, những áng văn thơ kia đã vô tình chuẩn bị cho con người đến với cách mạng dễ dàng hơn khi họ có điều kiện tiếp xúc với lý tưởng của Đảng. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều đó[1].

Nhà thơ Chế Lan Viên có bài thơ Hai câu hi. Bài thơ diễn tả cơ chế chuyển biến tư tưởng và nghệ thuật của tác giả trước và sau Cách mạng tháng Tám. 

Ta là ai? Như ngọn gió siêu hình
Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt
Ta vì ai? Khẽ xoay chiều ngọn bấc
Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh. 

Nói chung, những nhà văn "tiền chiến" vào những năm 50, 60 của thế kỷ trước thường có thái độ đối lập như thế giữa cái tôi riêng và cái ta chung, giữa cá nhân và cộng đồng.

Trong quá trình tìm hiểu con đường nghệ thuật riêng của mỗi nhà văn, tôi đã mượn cách diễn đạt nói trên của Chế Lan Viên nhưng đồng thời bác bỏ sự đối lập cái tôi và cái ta của nhà thơ. Tôi cho rằng, con đường nghệ thuật độc đáo của mỗi nhà văn được vạch ra từ sự giải đáp khác nhau về hai câu hỏi nói trên trong quá trình sáng tác. Ta vì ai? Là lý tưởng xã hội của nhà văn. Ta là ai? Là sở trường riêng, phong cách nghệ thuật riêng của mỗi cây bút. Lời giải đáp đúng đắn chỉ có thể có được bằng thực tiễn sáng tác của người cầm bút - qua sáng tác, nhà văn, cùng một lúc tìm hiểu mình và tìm hiểu đời[2].

Trong lĩnh vực khoa học, nhiều luận điểm mới mẻ đã nảy sinh từ sự bác bỏ những luận điểm nào đó. Vì thế việc tổ chức những cuộc tranh luận lành mạnh,dân chủ, bình đẳng là tạo ra những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khoa học. Những ý kiến của tôi về Nguyễn Huy Thiệp, về một số bài thơ của Bác như Tc cảnh Pác bó, Giải đi sớm, ốm nặng, Cảnh chiều hôm...v.v...đã nảy sinh từ những cuộc tranh luận như thế...[3]

4. Ghim những câu hỏi trong đầu như những cái đinh để móc vào đấy những kiến thức đã thu lượm được.

Để có ý hay, ý mới, điều quyết định là đầu óc phải luôn luôn làm việc. Nhà thơ Xuân Diệu có lần nói với tôi khi tôi than phiền nghĩ mãi không ra một ý gì để giải quyết một vấn đề khoa học mà mình theo đuổi. Ông động viên tôi: "C nghĩ tập trung mãi vào một điểm thì rồi thế nào cũng nghĩ ra, đừng bi quan. Mình nhiều lúc cũng bí. Hết hạn nộp bài đến nơi rồi mà đầu óc vẫn trống trơn. Y như nợ phải trả đến nơi rồi mà trong túi không có một xu. Vậy mà cứ nghĩ xoáy mãi vào một điểm thật quyết liệt rồi ý cũng nẩy ra và viết được".

Tôi có một kinh nghiệm thế này: trong quá trình suy nghĩ, tất nảy ra những thắc mắc, những câu hỏi. Đó là những đề tài của những bài nghiên cứu rồi có lúc sẽ được giải quyết. Hãy ghim những câu hỏi ấy trong đầu như những cái đinh đóng trên tường để treo mũ, mắc áo hằng ngày.

Đọc báo, đọc sách, nghe giảng bài hay nghe nói chuyện mà trong đầu không có sẵn những cái "đinh" khi thì kiến thức nghe được, đọc được cũng tuột đi mất, vì không khắc sâu vào trí ta được. Nhiều kiến thức rất thú vị đến với ta một cách hết sức bất ngờ và ngẫu nhiên do đọc sách hay trò chuyện với ai đó. Nhưng nếu không có sẵn những cái "đinh" kia trong đầu thì có khi cũng không bắt lấy được và để tuột mất. Những cái "đinh" kia có sức hút rất nhạy những kiến thức liên quan đến nó, tức là những ý kiến làm cho nó được sáng tỏ. Một cái "đinh" vào đấy khi đã móc được nhiều nhiều ý kiến rồi thì khi đó ta sẽ có đủ khả năng, có đủ luận điểm để giải quyết được một thắc mắc, một câu hỏi, tức một đề tài khoa học nào đấy mà ta vẫn nung nấu trong đầu. Có nghĩa là ta có thể xây dựng được một bài nghiên cứu có giá trị nhất định.

Một lần, tôi tình cờ đọc được một bài viết của một tác giả Liên Xô (cũ) bàn về cái tên cuốn tiểu thuyết của Xtăngđan (Stendhal): Đ và đen. Tác giả bài viết cho rằng, cuốn tiểu thuyết đã mở đầu bằng mấy chi tiết báo trước số phận của nhân vật chính là Giuyliêng Sôren (Julien Sorel). Anh học trò này trước khi đến nhận làm gia sư cho nhà quý tộc Đơ Rênan (De Rênal), đã đảo qua nhà thờ của thị trấn. Anh ta thấy màu đỏ của tấm riđô nơi nhà thờ chiếu vào bình nước thánh, trông như máu, đồng thời nhặt được một tờ báo ai bỏ lại đấy, đăng tin một vụ án mạng. Đấy là cái điềm báo trước số phận của Giuyliêng: anh ta sẽ can tội giết người và bị án tử hình. Đỏ là máu, đen là tang tóc. Tên truyện Đ và đen diễn đạt dưới hình thức biểu tượng cái điềm báo trước kia mà tác giả Xô Viết gọi là chi tiết tiên tri dự báo (épisode prophétique). Tôi liền chộp lấy ngay khái niệm này và mắc vào cái "đinh" ghim sẵn trong đầu về trường hợp tư tưởng bi quan định mệnh chủ nghĩa Vũ Trọng Phụng thể hiện ở hàng loạt nhân vật thầy bói, thấy tướng xuất hiện như những Quỷ Cốc tái sinh báo trước số phận những nhân vật chính như Mịch (Giông t), Xuân (S đỏ), Phúc (Trúng s độc đắc)...[4]

Một lần khác, nhân đọc cuốn tiểu thuyết Anh em nhà Karamazôp ca Đôtxtôiepxki, tôi thấy có một nhân vật nói thế này: "Tôi càng yêu nhân loi nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức là tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước nhiều khi tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (...) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kỳ ai trong một căn phòng". Đó là loại người chỉ có cái mà Đôtxtôiepxki gọi là "Tình yêu mơ mộng" chứ không có tình yêu thật sự. Câu nói của nhân vật này khiến tôi liên hệ đến tình cảm nhân đạo vừa mênh mông bao trùm cả nhân loại vừa rất cụ thể thiết thực của Bác Hồ thể hiện trong Nht ký trong tù - đây cũng là một cái "đinh" ghim sẵn trong đầu tôi khi nghiên cứu văn thơ Hồ Chí Minh. Tôi hiểu ra rằng "Bác H không vì những mục đích xa mà quên những mục tiêu gần, không vì chú trọng lợi ích lâu dài mà bỏ qua lợi ích trước mắt của quần chúng, không vì quan tâm đến cái nhân loại lớn mà thờ ơ với cái nhân loại nhỏ hẹp quanh mình (tức là những bạn tù) mà những vui buồn sướng khổ hàng ngày đã dệt nên những cuộc đời cụ thể"...v.v...[5]

Như thế là những kiến thức có tác dụng giải quyết những đề tài của bài viết của mình nhiều khi nằm ở những tài liệu chẳng có liên quan gì trực tiếp đến đề tài cả. Tuy nhiên muốn thu lượm được những kiến thức như thế, trong đầu lúc nào cũng phải ghim sẵn những cái đinh như đã nói ở trên.

Đọc sách đọc vở nhiều khi "vớ" được những ý kiến có tác dụng rất lớn giúp mình giải quyết không phải một đề tài mà hàng loạt đề tài. Đó là những ý kiến có ý nghĩa phương pháp luận khoa học. Thí dụ ý kiến sau đây của Plêklanov đã giúp tôi mở ra cả một phương hướng trong nghiên cứu các hiện tượng văn học sử: "Nếu không hiểu tâm lý xã hội thì không thể tiến lên một bước nào trong lịch sử văn học, nghệ thuật, triết học...". Tôi đã theo phương hướng này đề nghiên cứu một cách có hiệu quả những đặc điểm của nền văn học hiện đại nước ta từ đầu thế kỷ XX đến 1945 và từ 1945 đến 1975, và hàng loạt nhà văn từ Hồ Chí Minh, Tố Hữu, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nam Cao, Tô Hoài, đến Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc...v.v...

Thực tình mà nói, có một thời gian dài, bộ môn lý luận văn học của ta có những biểu hiện giáo điều, xa rời đời sống thực tế sinh động và phức tạp của văn học. Muốn thoát ra khỏi sự trói buộc của thứ lý luận "quan liêu" ấy, chỉ có một cách là trực tiếp gắn bó với "cây đi". Vì thế tôi rất chịu khó tiếp xúc với các nhà văn, trao đổi với họ, lắng nghe ý kiến của họ tự bạch về quan niệm văn chương, về kinh nghiệm sáng tác. Nhiều ý kiến của họ đã gợi ý cho tôi giải quyết những vấn đề mình băn khuăn, thắc mắc trong quá trình nghiên cứu văn học. Chẳng hạn, ông Hoài Thanh có lần nói: "Người ta sáng tác bằng những ấn tượng lúc năm, bẩy tuổi". Nguyễn Đình Thi thì cho biết, cái ria mép của nhân vật địa chủ Hàn Thanh trong V bờ là được vẽ theo cái ria mép của một ông giáo dạy nhà văn hồi học cấp I. Ông còn kể rằng hồi nhỏ, những buổi trưa ở lại trường, ông thường thích nằm ngửa trên nệm cỏ sân trường ngắm nhìn bầu trời xanh lồng lộng trên cao. Sau này khi ông viết bài thơ Đt nước, cái bầu trời rất xanh ấy đã trở lại trong tâm hồn ông với tâm trạng vô cùng náo nức thấy mình được làm chủ giang sơn, trời đất của mình: "Tri xanh đây là của chúng ta! Núi rừng đây là của chúng ta!"...

Những ý kiến ấy lập tức được móc vào "cái đinh thắc mắc" đã ghim sẵn trong đầu tôi với những day dứt không nguôi về nguyên nhân hình thành thế giới nghệ thuật riêng, phong cách nghệ thuật riêng của mỗi nhà văn. Tôi tin chắc rằng, cái nhân tố hết sức quan trọng tạo ra thế giới hình tượng rất riêng của mỗi nhà văn chính là môi trường xã hội, môi trường văn hóa, là cảnh vật thiên nhiên, là không khí gia đình...v.v...mà nhà văn từng hít thở từ tuổi ấu thơ. Những ấn tượng của môi trường sống rất riêng ấy, bản thân chúng nhiều khi chẳng có ý nghĩa gì, vậy mà sẽ theo đuổi và ám ảnh nhà văn cho đến suốt đời. ấy là cái không khí thơ mộng và trữ tình của Huế đối với Tố Hữu, là cái sinh hoạt "Vang bóng mt thời" của cụ Tú Lan đối với Nguyễn Tuân, là cái không khí náo nhiệt và cái nắng, cái gió của thành phố cửa biển đối với Nguyên Hồng, là cái làng sơn cước Ân Phú bên bờ sông La với những bãi cát hoang vắng cổ sơ đối với Huy Cận, là cái gió biển nồng nàn của thành phố Quy Nhơn đối với Xuân Diệu, là những tháp Chàm Bình Định, dấu tích diệt vong của một dân tộc từng có một thời oanh liệt đối với Chế Lan Viên...v.v...

Nói chung, một bài viết mà toàn ý hay, nghĩa là ý mới, ý riêng cả là điều rất khó đạt được. Nhưng trong mười ý thế nào cũng phải có được vài ba ý hay thì mới được gọi là bài văn có giá.

Mỗi bài viết có một mặt bằng riêng cao thấp khác nhau do trình độ văn hóa, chuyên môn khác nhau của mỗi cây bút. Trên cái mặt bằng ấy thế nào cũng phải nhô lên một số mũi nhọn, tức là ý xuất sắc, độc đáo. Theo tôi, có đạt được như vậy thì mới nên cầm bút.

Có nhà lý luận phê bình sản xuất hàng trăm bài văn, hàng chục đầu sách, nhưng không có được một mũi nhọn nào. Trong khi có người viết rất ít, nhưng bài nào cũng có ý riêng, ý mới và sâu.

Công luận tất nhiên đánh giá cao cây bút thứ hai và đánh giá thấp cây bút thứ nhất - đánh giá thấp bằng sự quên đi, thậm chí thấy tên người ấy ký dưới bài viết là không muốn đọc, vì sợ mất thì giờ... 

(Hết)

                                                                          N.Đ.M



[1] Thư của Puginier gửi tổng trưởng thuộc địa Pháp đề ngày 4 - 5 - 1887. Dẫn theo Nguyễn Văn Trung: Chữ văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc - Nam Sơn, Sài Gòn 1974.

[2] Xem Văn và dạy - học văn - Nxb Thanh Hóa 1993

[3] Xem Mấy vấn đề về quan điểm và phương pháp tìm hiểu, phân tích thơ Hồ Chí Minh. Nxb Giáo dục 1981 và Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong cách - Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh, 2000

[4] Con đường đi vào thế giới nghệ thuật (Sách đã dẫn)

[5] Nhà văn tư tưởng và phong cách (Sách đã dẫn)

 

Lưu trữ Skip Navigation Links.
Expand  Năm 2012 Năm 2012
Expand  Năm 2013 Năm 2013
Expand  Năm 2014 Năm 2014
Expand  Năm 2015 Năm 2015
Expand  Năm 2016 Năm 2016
Expand  Năm 2017 Năm 2017
Expand  Năm 2018 Năm 2018
Expand  Năm 2019 Năm 2019
Expand  Năm 2020 Năm 2020
Expand  Năm 2021 Năm 2021
Expand  Năm 2022 Năm 2022
Expand  Năm 2023 Năm 2023
Expand  Năm 2024 Năm 2024
Chia sẻ trên Facebook