I. Viết văn là quá trình phấn
đấu quyết liệt và liên tục.
1. Có ý hay mà không có văn hay thì ý không
nổi lên được, tất nhiên bài viết không hấp dẫn người đọc. Chế Lan Viên nói
đúng: "Có những cái cày bừa tăng năng suất cho cây trồng. Có những cách
dùng chữ, viết văn tăng năng suất cho ý".
Văn hay cũng có nhiều mức cao thấp khác
nhau, phụ thuộc vào sự phấn đấu theo chỉ tiêu cao thấp khác nhau của ngươì
viết. Đánh giá người viết văn giỏi, không nên căn cứ ở chỗ anh ta viết nhanh
hay chậm, chữa bản thảo nhiều hay ít, mà ở chỗ anh ta đạt tới cái hay ở mức độ
nào.
Nhiều nhà văn lớn viết rất chật vật, bản
thảo chữa đi chữa lại rất nhiều lần, thậm chí có khi chữa mãi cũng chưa ưng ý
thì vứt quách đi, không tiếc. Những tập bản thảo ấy, đối với người khác, có khi
đã lấy làm thoả mãn lắm rồi. Đấy là do tiêu chí đánh giá cái hay của văn chương
trong quan niệm của mỗi người viết có mức độ cao thấp rất khác nhau.
Viết văn nên phấn đấu theo tiêu chí cao,
hướng tới người đọc ở trình độ cao - cao về văn, tất nhiên. Nghĩa là lấy mức
văn của những ông ấy làm chuẩn. Khi viết, ta tưởng tượng những độc giả ấy sẽ
đọc mình và cố sức viết sao cho các vị ấy chấp nhận là được.
Khi Nhà xuất bản Văn học quyết định làm
tuyển tập Nguyễn Tuân, ông Giám đốc Lý Hải Châu đề nghị hai người (ông Vũ Ngọc
Phan và tôi) để Nguyễn Tuân chọn lựa. Nguyễn Tuân đã chọn tôi. Vinh dự này
khiến tôi phải cố hết sức viết bài giới thiệu sao cho nhà văn ưng ý. Bài giới
thiệu chỉ hơn 60 trang mà phải viết trong gần 6 tháng. Viết xong, hai chân bị
phù nề vì ngồi lâu, xuống máu.
Thực ra, "văn mình, vợ người", tự
đánh giá đúng văn mình rất khó. Vì thế trong thời kỳ tập viết, nên đưa bài văn
của mình cho những người có trình độ cao xem để họ đánh giá cho. Khi bài đã in
ra, thì nên lắng nghe dư luận đánh giá thế nào để rút kinh nghiệm. Có bài mình
viết xong tưởng là được. Té ra người ta chê không ra gì. Tất nhiên được những
ông như Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... khen thì rất sướng
và hoàn toàn có thể yên tâm. Cố nhiên không nên nghĩ rằng đã viết được một số
bài khá thì sẽ tiếp tục viết khá. Mỗi bài viết lại là một cuộc vật lộn mới, một
cuộc phấn đấu mới, nếu không cố gắng hết sức thì có thể viết xuống tay dần,
nghĩa là thụt lùi một cách thảm hại. Thực tế, đã có những cây bút như vậy.
2. Nhưng văn hay phải có cái gốc tư tưởng
vững. Nhà thơ Xuân Diệu có lần nói với tôi: "Vốn văn hóa, kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm sống, nếu chịu khó đọc
sách, học hỏi, rút kinh nghiệm thì rồi sẽ có được. Nhưng điều quyết định là
phải có cái gốc nhân tình thật vững thì mới viết được tốt và mới đi xa được."
Người ta thường nói văn phải có giọng
riêng, văn phải có hồn. Hồn văn, giọng văn xét đến cùng, bắt nguồn từ thái độ
tình cảm của người viết, nghĩa là từ tư tưởng riêng (không phải tư tưởng vay
mượn) thể hiện ở thái độ khinh trọng, yêu ghét riêng. Diễn đạt thái độ ấy một
cách chân thật thì tạo ra giọng văn riêng của mình. Đọc văn như thế, thấy có
hình ảnh cái tôi của người cầm bút hiện diện qua lời văn, qua những dòng chữ,
cho đến cả cách diễn đạt câu, dùng từ...
Mạnh Tử nói: "Lời nói không ngay
thẳng biết có điều che ám, lời nói quá quắt biết có bị hãm về cái gì, lời nói
cong queo biết có điều lìa lẽ phải, lời nói quanh quẩn, biết có điều cùng
khốn". Từ Trình Khanh nói: "Nhân phẩm do sự tu dưỡng mà khác nhau,
tài nghệ cũng do đổi đời mà trái hẳn, cho nên những nhân chính hiền sĩ, lời
thuần mà khí bình, những anh hùng hào đại hiệp, lời hùng mà khí mạnh, những cô
thần nghiệt tử, lời gắt mà khí gấp, những dật dân di lão, lời kín mà khí trầm,
các nhà hiền lương văn học, lời nhã mà khí hoà, các bậc phi tần liệt sĩ, lời
tôn mà khí nghiêm, những mị phu cận thần, lời lả lướt mà khí tục tằn, những
tuấn nam kỳ nữ, lời dâm đãng mà khí hồi hộp"[1].
Tôi có đưa ra khái niệm "Sang"
trong đánh giá văn chương - bên cạnh tiêu chí đúng sai, hay dở. Đúng vậy, gốc
tư tưởng có tốt, gốc nhân tình có sâu tư cách người viết có đàng hoàng thì văn
mới hay, mới sang được.
II. Một số thủ pháp hành văn
cụ thể.
Tổng kết kinh nghiệm viết văn, tôi có rút
ra được một số thủ pháp hành văn cụ thể. Thực ra khi viết chưa hẳn đã có ý thức
dùng thủ pháp này thủ pháp khác. Chẳng qua là nội dung viết tự nó đòi hỏi phải
viết như thế - nội dung quyết định hình thức.
1.
Thủ pháp đòn bẩy
Muốn làm cho ý của mình nổi bật lên, gây được
ấn tượng đậm nét ở người đọc, nhiều khi phải dùng thủ pháp đòn bẩy.
Thí dụ: Trong bài "Nguyên Ngọc, con
người lãng mạn", để nêu bật cái ý mà tôi tự thấy là một phát hiện này:
"Nguyên Ngọc không phải chỉ viết truyện sử thi, viết văn lãng mạn. Anh
thật sự sống trong không khí sử thi và mang hẳn trong máu mình chất lãng
mạn", tôi đưa cái ý nghĩa không đúng của mình trước đây về Nguyên
Ngọc: "Về văn Nguyên Ngọc, thú thật tôi chỉ đọc có hai tác phẩm
"Đất nước đứng lên" và "Rừng xà nu". Mà đọc không phải để nghiên
cứu, nên cũng chẳng nghiền ngẫm gì nhiều, vì thế tôi cứ đinh ninh, đến thời đổi
mới này, anh không thể viết được nữa. Anh chỉ có thể đổi mới bằng lý luận, bằng
lý thuyết mới và bằng cách ủng hộ những xu hướng sáng tác mới. Cái tạng của anh
chuyên viết truyện anh hùng, với ngôn ngữ sử thi tráng lệ hào hùng và cảm hứng
lãng mạn sôi nổi, như "Đất nước đứng lên", như "Rừng xà
nu", bây giờ viết sao được nữa!".
Ý nghĩ này chính là đòn bẩy, cũng có thể
gọi là một thứ phục bút, để làm nổi hẳn lên cái ý mà mình rất tâm đắc sau đây:
"Té ra tôi đã lầm, lầm to: anh vẫn
viết, vẫn viết về người anh hùng, vẫn viết bằng cái văn ấy, bằng cái giọng ấy,
bằng cái cảm hứng lãng mạn sôi nổi ấy"[2].
Về bài Dại khôn Nguyễn Khải, để nêu
bật cái dại của nhà văn rất khôn này, tôi trước hết nói về cái khôn của anh đã.
Lại khen cả cái "bốc" rất đáng yêu của anh khi phát hiện một
tài văn mới. Đấy cũng là một thứ đòn bẩy để tô đậm cái dại của anh, khiến anh "bây
giờ nghĩ lại, xấu hổ chết đi được"[3].
Cũng một cách ấy tôi so sánh tư tưởng của
Ngô Tất Tố viết về cái đói và miếng ăn của người nông dân, để nêu bật tư tưởng
rất khác của Nam Cao cũng viết về đề tài ấy: Ngô Tất Tố viết về cái đói, Nam
Cao viết về miếng ăn. Ngô Tất Tố viết về cái khổ, Nam Cao viết về cái nhục,
truyện Ngô Tất Tố là tiếng kêu cứu đói, truyện Nam Cao viết là tiếng kêu hãy
cứu lấy nhân tính, nhân phẩm con người đang bị miếng ăn hủy hoại...[4]
2. Lấy một hiện tượng trong thực tế đời
sống quen thuộc có hình thức tương đồng để diễn đạt ý tưởng.
Nói về sự xuất hiện hàng loạt tiểu thuyết
nhiều tập vào những năm 60 của thế kỷ vừa qua, như Vỡ bờ, Bão biển, Những
người thợ mỏ, Cửa biển...v.v, tôi hình dung các tác giả của chúng như những
đấu thủ chạy đua dai sức nhiều vòng trên sân vận động - mục đích là để đánh giá
cao sức viết rất khoẻ của Nguyên Hồng: "Đọc bốn tập truyện của Nguyên
Hồng, tôi bỗng nẩy ra một ý nghĩ vui vui: viết truyện dài cũng có thể ví như
người chạy đua dai sức chứ sao? Mỗi vòng đua có thể ví như một tập sách phải
hoàn thành. Vậy thì chung quanh đề tài "Cửa biển", cho đến
nay, dễ đã có đến bốn, năm người bước vào cuộc đấu. Ở vòng đầu, nói chung, ai
nấy đều hăng hái. Có người chạy rất tốt và hứa hẹn nhiều triển vọng, đã được
người xem cổ vũ nhiệt liệt. Nhưng đến vòng hai, xem ra đa số đều uể oải, có
người đành phải bỏ cuộc. Riêng Nguyên Hồng thì cứ đều đều một mạch chạy suốt
bốn vòng, khi tới đích, mệt thì có mệt, vẫn đủ sức giơ tay vẫy chào khán
giả"[5].
Kết thúc bài viết về bộ tiểu thuyết Cửa
biển, tôi lại nẩy ra một ý khác: so sánh sáng tác tiểu thuyết với việc tổ chức
những trận đánh, nhằm tổng kết dưới hình thức ngắn gọn, dễ hiểu và vui về chỗ
mạnh chỗ yếu cơ bản của ngòi bút Nguyên Hồng, đồng thời cũng nhân đó, đưa ra
nhận xét một cách bóng gió về mấy nhà tiểu thuyết khác: "viết tiểu
thuyết có thể ví như tổ chức một trận đánh trong nghệ thuật quân sự. Truyện
ngắn, ấy là một trận nhỏ. Truyện dài, ấy là tiến hành một trận đánh lớn, một
chiến dịch. Muốn tổ chức một chiến dịch đạt kết quả tốt, tôi nghĩ, một mặt phải
có người chỉ huy giỏi, mặt khác phải có quân đội vững, hậu cần tốt. Xem xét một
số "chiến dịch" tiểu thuyết của ta hiện nay, thấy có trường hợp người
chỉ huy tỏ ra rất sắc sảo, đường lối quân sự nắm vững, kế hoạch tác chiến rất
thông minh, nhưng trận đánh càng triển khai càng lúng túng, vì lương thực thiếu,
quân lại không đủ mạnh, nhất là quân chủ lực. Trận đánh của Nguyên Hồng có lẽ
thuộc trường hợp ngược lại. "Chiến dịch" "Cửa biển" như thế
là đã kết thúc và có thể nói là đã giành được thắng lợi nhất định. Nhưng nếu
như cũng quân ấy, hậu cần ấy, mà chỉ huy tốt hơn nữa, mục tiêu nắm chắc hơn,
chọn binh tuyển tướng nghiêm khắc hơn, hành quân mau lẹ và phối hợp các binh
chủng một cách chặt chẽ và khẩn trương hơn thì chắc hẳn "chiến dịch"
sẽ diễn ra một cách nhanh gọn hơn và thắng lợi lại còn có thể lớn hơn". Tôi cho rằng cách diễn đạt này đã làm sáng tỏ được chỗ mạnh chỗ yếu, nhìn trên nét
lớn, của bộ tiểu thuyết Cửa biển của
Nguyên Hồng: vốn sống phong phú, hình tượng chồng chất, chi tiết bề bộn và sinh
động, nhưng kết cấu không chặt, nhiều chương dài dòng luộm thuộm... ngược hẳn
với chỗ mạnh, chỗ yếu của bộ tiểu thuyết Vỡ bờ của Nguyễn Đình Thi.
Nói về những bài thơ viết non, viết vội của
Huy Cận trong tập Những năm 60, tôi đã ví nhà thơ giống như "một
đứa trẻ háu ăn, cứ đi đi lại lại nóng lòng sốt ruột qua một cái vườn ấy, một
gốc cây ấy của tâm hồn mình để chờ hái quả thơ vừa chín tới. Hái sớm, hái vội
một chút, cố nhiên là không có lợi cho thơ. Cho nên cũng là một gốc cây Huy Cận
đó thôi mà trái lần này xanh hơn, vị lần này nhạt hơn"[6].
Nhìn một cách khái quát chỗ đứng của các
nhà văn trong lịch sử văn học, tôi cho rằng nhà văn chỉ có thể sống lâu dài với
thời gian, nghĩa là có vị trí vững chãi trong văn học sử, khi tạo ra được những
kiệt tác văn chương, những đỉnh cao nghệ thuật. Vì thế tôi đã lấy hình ảnh này
để diễn đạt: "Đứng trước lịch sử văn học một dân tộc cũng giống như
đứng trước một cảnh núi non trùng điệp chạy giật lùi về phía chân trời của quá
khứ: người ta chỉ có thể nhìn thấy được những đỉnh cao mà thôi"[7].
Nghĩa là đối với văn học đương đại thì
người ta có thể thấy được tất cả, dù chỉ là những gò đống. Nhưng lịch sử lùi xa
mãi thì gò đống sẽ bị xoá đi hết, chỉ còn lại những đỉnh cao.
( Còn nữa )