Chân dung nhà cải cách Kim Ngọc qua những miền ký ức
Kim Ngọc- tên thật là Kim Văn Nguộc, sinh 10 tháng 10
năm 1917, tại xã Bình Định, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc. Mất ngày 26 tháng 5
năm 1979. Năm 1954, Phó Chính ủy Quân khu Việt Bắc. Năm 1958, Bí thư tỉnh ủy Vĩnh Phúc. Từ năm 1968 đến 1978, Bí Thư tỉnh Vĩnh Phú. Kim Ngọc được coi là cha đẻ của khoán hộ và đổi mới trong nông nghiệp ở Việt Nam.
1. Hồi ức của một binh nhì: “Những người xung quanh tôi phần đông là nông dân nên tôi thấm hiểu thế nào là lòng biết ơn của họ với nhà cải cách Kim Ngọc..”
Năm 1980, rằm tháng Giêng, tôi, anh lính binh nhì viết văn phong trào của Trung tâm huấn luyện chiến sĩ mới - Sư đoàn 411, nằm khoèo nơi trạm khách dưới chân tháp cảnh giới của
người Pháp sót lại trên đồi Ga Vĩnh Yên.
Những
cơn đói quằn quại ẩn
trong mỗi nơ ron thần kinh, mỗi tế
bào tuổi 20 khát thèm tinh bột và protein, cấu xé rùng rùng từ đầu
tới chân. Tiêu chuẩn lính chiến đấu
24 kg lương thực, nhưng bữa ăn đại táo bày ra trên chiếc vung xoong quân dụng chỉ là những cục bo bo rã rời hăng mùi cứt mọt
(thứ mà ở Đông Âu người ta cũng không dám cho gia súc ăn) và nhúm
rau muống luộc ố
vàng như gốc rạ.
Gió trung du đồi sỏi
khan lạnh lùa qua kẽ nứa
thưa đan. Tôi ngắm
cánh đồng chưa kịp
cấy lúa lõng bõng nước, mấp mô luống cày. Đám nông phu còm cõi, ể oải
níu vai chiếc bừa đeo bám đít trâu bò gầy mõ bương đi dật dờ
trong cơn mê ngủ.
Sát hàng rào kẽm gai, vạt ruộng rau muống váng phèn ám đỏ như
ngấm a-xít, lơ phơ
màu hoa trắng tím. Bà già trùm áo tơi lá và đứa cháu trai áo sợi quân dụng, quần lửng
đùi chừa ra đôi chân nhưống
tre còi. Bà và cháu khua liềm làm cỏ rau muống. Bà và cháu cùng mót những cọng rau muống trụi lá, cứng dai như tay tre gai đồi sỏi.
Bà và cháu trịnh trọng bỏ từng
cọng rau vào chiếc rổ
thưa méo miệng…
Bỗng
tôi nhận được lệnh
tháp tùng hai sĩ quan: Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển - Trưởng Ban tuyên huấn và trung tá Phạm Quế Dương
- Chủ nhiệm chính trị Sư
đoàn ra bên ngoài doanh trại. Quân phục gọn
gàng, trên tay chiếc túi vải bạt
đựng chai rượu chanh Hà Nội, hộp nhang vòng, gói bánh qui Hương Thảo mà người trợ lý tuyên huấn vừa
trao cho, tôi đứng chờ nhấp
nhổm trên đám sỏi cuội ong như gỉ
sắt.
Chẳng
hiểu lúc đó tại sao hai người sĩ quan từng trải qua hai cuộc kháng chiến: giỏi tiếng Pháp, thích Ô-pê-ra, chơi vi-ô-lông, mê bóng bàn… lại chiếu cố
đến tôi. Và, tôi cũng tự nhiên yêu quí họ, yêu quí đến tận
bây giờ. Quân phục mới
nức, hai viên sĩ quan quân hàm quân
hiệu sáng chói khoác va-rơi màu cỏ, bước
nhanh ra khỏi tầng hầm trại lính cũ, nghiêm trang, trịnh trọng và trầm buồn. Rập gót, giơ tay lên đầu, đáng lẽ nói: “Chào các thủ trưởng
ạ” thì tôi lại “Cháu chào hai bác ạ!”. Thiếu tá Nguyễn Ngọc Chiển cau mày. - Cậu định
làm nông dân đến bao giờ nữa
đây. Gần quá tuổi quân rồi.
Trung tá Phạm Quế Dương
mải nghĩ gì đó nhưng tâm vẫn dính vào vụ việc.
Ông phẩy tay:
- Chậc, nước Việt ta có làm vua mười ba đời thì cắt gân gót vẫn còn máu nông dân. Có lẽ tại
chúng ta sắp đi thắp hương
cho anh Kim Ngọc - một Đảng
viên của những Đảng viên - một nông dân của những nông dân nên linh ứng chăng?
Thiếu
tá Nguyễn Ngọc Chiển nhìn cấp trên đắn đo:
- Có gọi xe không anh? Tôi sợ anh sẽ lạnh…
- Đi thăm Kim Ngọc mà đi ô tô được sao. Kim Ngọc từng
xắn quần lội
ruộng lầy mùa đông thăm lúa, thăm ngô quanh năm. Ta
cuốc bộ. Sĩ quan bộ đội
Việt thì khác gì Chủ nhiệm HTX nông nghiệp.
Tắt
qua đại đội vận
tải là Xí nghiệp nung vôi liền kề
ga Vĩnh Yên. Khói than. Bụi vôi. Bụi than. Bụi từ
người lính, bụi người dân tứ xứ
đứng, ngồi dồn
ứ hai bên đường ke thành màn sương xám tê tái lơ lủng
nhấn chìm mọi vật
vào âm u. Bộ đội quân phục nhàu nhò, súng đạn lấm
lem. Nông dân vàng ệch, bao tải, quang sọt, đòn xóc, thừng chão quấn ngang lưng. Sắn tươi,
sắn khô, su hào, bắp cải,
cá mắm, măng khô, chè tươi, cắp nách, bưng bê, giấu giếm đâu đó. Mùi thối rũa. Mùi tanh ngắt.
Quân cảnh, phòng thuế, công an thi thoảng lại thổi còi choe chóe đuổi bắt.
Tiếng chân chạy thục mạng.
Hơi thở hồng
hộc. Vấp, ngã. Xin xỏ. Van lạy. Thề thốt.
Đầu tàu già cỗi, oằn oại
kéo theo những toa hàng han gỉ…
Ba quân nhân bảnh bao băng qua sự hỗn
loạn trong vô số ánh mắt ác cảm. Những ánh mắt ném vào lưng chúng tôi câu hỏi: Sao thời buổi này mà vẫn có những kẻ bóng mượt thế kia. Tôi đi cuối mà vẫn thấy da mặt mình sần lên. Vòng qua đầu dãy nhà kho khai nhức, thối gắt
mùi cặn bã người phóng uế Bỗng một cảnh
tượng chọc vào mắt. Bà già áo bông đụp, váy đụp, thắt bẹ
chuối, nón mê đang co kéo với hai gã trung niên thuế vụ
chiếc bao tải vốn đựng
phân u-rê, cuốn giấu chừng ba bốn cân chè khô. Tiếng bà già khan khê:
- Ôi các ông ơi cho con xin. Đây là chè vườn nhà con tích cóp được. Con có buôn gian bán lận gì đâu. Nhà nông năm nay đói kém, con mang
đi đổi sắn khô về cho mấy đứa
cháu nội. Bố nó đang trận mạc
biên giới chưa biết sống
chết ra sao. Ôi các ông cho con xin.
Các ông cướp của con thì con xin chết ngay bây giờ. Ôi Đảng, ôi Chính phủ ơi.
Hai gã trung niên béo khỏe hùa nhau giựt lại
bao chè. Bà già nhất quyết bám chặt như kìm bấm khóa.
- Ba bốn cân chè chứ có ít đâu. Đây là hành vi đầu cơ
tích trữ. Phải tịch
thu…tịch thu…sung công quỹ.
Bà già đu người níu giữ. Bậc!
Chiếc túi bục ra. Chè khô vung vãi trên mặt đất.
Gói giấy xi-măng cũng văng ra. Một dúm những hạt bo bo lẫn sỏi
dăm vụn than vụn tung tóe theo. Thứấy,
ai nhìn cũng biết ngay là mới được
mót vét ở sân ga này.
Bà già ngồi bệt,
ôm mặt lúc lắc chiếc nón mê. Mãi sau như mới
hồi tỉnh, bà quì gối bò lổm ngổm, bốc, vét những thứ vừa
bị tãi rời.
Hai viên sĩ quan vừa bước
tới, bà già lao đến ôm lấy chân trung tá Phạm Quế Dương:
- Ôi các ông tướng ông tá xin cứu con! Con của con nó cũng đang làm lính cho hai ông. Nhà
cháu hết gạo từ
đầu tháng Chạp năm ngoái rồi…
Trung tá ngồi thụp xuống đỡ bà cụ. Thiếu tá nhũn nhặn với
hai gã thuế vụ:
- Thôi, các anh cho tôi xin thay cho bà cụ. Các anh nhìn xem, người thế này thì làm sao có khả năng đầu cơ
tích trữ.
Một
trong hai gã cằn nhằn:
- Không được. Vi phạm chính sách kinh tế tập
trung của Đảng và Nhà nước… Thủ
trưởng ký cho em một chữ thì em sẽ tha ngay cho bà già này.
Thiếu
tá thõng tay buồn thiu. Trung tá lần túi ngực bên trong áo khoác, rút ví:
- Phải nộp
bao nhiêu tôi xin nộp thay bà cụ.
Viên đội trưởng thuế vụ
đôi mắt ngầu đỏ
xuất hiện. Ông mỏi mệt
và lễ phép:
- Tôi xin các thủ trưởng.
Không thể bỏ qua được. Đây là chính sách chung. Trên sân ga này,
hàng ngày có hàng trăm hàng nghìn trường
hợp như bà cụ này. Chúng tôi biết phải làm sao đây. Tha ai, bắt ai. Xin mời các thủ trưởng
tiếp tục công vụ. Tôi sẽ liệu
vụ này…
Tôi lại theo hai sĩ quan rời đi trong nín lặng. Hai viên sĩ quan trao đổi, rời rạc,
trong tiếng gót giày Liên Xô đóng cá sắt, xiết trên mặt đường
nhựa trơ trơ
sỏi.
- Đất
nước đang khủng hoảng kinh tế. Hậu
phương quân đội của
chúng ta đã mất hết năng lượng dự trữ.
Vậy mà lòng dân và lòng quân vẫn tuyệt đối
tin tưởng vào Đảng. Thật tiếc sự
cải cách cách của Bí thư Kim Ngọc lại
không được ghi nhận và áp dụng vào thực tiễn. Chúng ta chiến đấu
vì sựấm no hạnh phúc của nhân dân mình kia mà…
- Mỗi
con người, mỗi dân tộc đều
có biểu tượng số phận
hình sin. Nhưng, nếu dân tộc hay con người cụ
thể mà sớm ý thức được
thời cuộc, thì biểu tượng
hình sin kia sẽ được vẽ
với những vòng cung rộng và nông, chứ không hẹp và ngoặt khúc đột ngột…
Trung tá bước hẫng
xuống rãnh nước ngang đường, tự lự
nói.
- Bằng linh cảm kinh nghiệm lịch
sử, tôi tin rằng, chúng ta trước sau rồi sẽ
phải áp dụng phương thức Kim Ngọc trong cải cách nông nghiệp. Không có lựa chọn nào khác. Mấy mươi
năm chiến trận người nông dân đã teo hết cơ
bắp. Trâu thì long móng, bò thì lở mồm…Mong rằng sự cải
cách sẽ diễn ra sớm. Mấy năm trước, tôi có qua Kim Anh, nên biết nông dân đã hể hả
như thế nào khi được khoán…Một ha đã đạt hơn
5 tấn thóc, nghĩa là gấp 4 lần so với những năm trước.
Thoát ra khỏi trung tâm thị xã gầy gùa, vênh vao, gay gắt. Ngoặt tay trái, trước mặt
rạp chiếu bóng 19/5 qua công viên hoang. Lại những vạt sắn
còi cặn. Những thửa rau muống úa vàng. Mấy chú bò liêu xiêu gầy. Con đường men theo hồ nước,
ven bờ tua tủa cây mai dương. Lối xóm khô xác phân chó bên rào cỏ, bỗng
hẫng xuống lòng ao cũ, lầy thụt . Ai đó đã đổ phế
thải xây dựng để có chỗ đặt
chân tạm bợ, để
có thể bước dấn
sang bên gò cao trước mặt.
Ngôi nhà lè tè nhưng vẫn có cảm giác chênh vênh bởi sự
đơn độc của
nó. Tường trát thiếu vôi, thiếu xi nổi cát. Ngói lợp khập khiễng, lệch xô. Đống sạn cát, gạch vỡ, ngói thủng được chủ nhân tận dụng
để chờ xây dựng tiếp chỗ nào đó, xếp gọn
gàng phía sau nhà. Xung quanh là nước
đầm Vạc đục
ngầu và nghĩa địa nhấp nhô. Dăm ngôi mộ xỉn
màu vôi cũ. Thùng đấu. Lò gạch hoang. Mảnh sành, mảnh gạch ngói vụn và cả những
chiếc tiểu cũ rỗng không. Gió từ khoảng trống trước mặt
ào ạt, ép quần áo dán chặt vào nửa người. Mùi hương trầm lặng
lẽ, cam chịu rớt
cuối tầm gió.
Con chó gié từ đâu xộc ra oẳng lên rủa ngân nga, sầu muộn.
Tôi nhìn quanh. Ngôi nhà nhân vật quan trọng đến nỗi
các thủ trưởng quân sự của
tôi khi nhắc đến cũng khẽ khàng kính trọng mà chỉ như
chiếc lò ấp trứng vịt HTX nông nghiệp. Hẳn cái ông có tên Kim Ngọc ấy
phải vô cùng đặc biệt. Đã tò mò tôi lại càng sốt ruột hơn.
Hai vị sĩ quan chỉnh đốn quân phục, trước khi bước qua cánh cổng khép hờ. Ven bờ rào, căng dây thép gai gỉ, ngang thân cọc tre, dăm cây xoan, dăm cây mít mới độ
bén đất ấm rễ.
Hàng chè để hái lá tươi vươn
cao, nhưng còn mảnh mướt lả
ngọn. Vườn táo lai Thiện Phiến bắt
đầu trổ búp mới.
Người
phụ nữ trắng
xanh, tầm ngoại ngũ tuần, khăn len kẻ trùm đầu, kính râm, áo len dài tay màu mận, quần lụa
đen óng, đôi dép nhựa xanh ngọc. Hai cánh tay đặt trước bụng,
bà từ tốn cất
giọng trầm và ấm. Nhưng sao tôi vẫn cảm
được sự xa cách, hờ hững
thấp thoáng nỗi buồn không thể cởi
gỡ. Bà Lê Thị Liên, người bạn
đời của Bí thư Kim Ngọc.
- Các ông đến thăm nhà ạ. Xin mời các ông vào.
Tiếng
dép lạch xạch lướt đi chầm chậm.
Bà đi ra từ cửa
ngách, nhưng lại vòng trước rẻo
sân lát gạch, xanh rêu, có cửa gian khách. Hai cánh cửa sơn
xanh, khẽ một cái đẩy tay, đã lật úp vào hai bên tường. Mùi hương trầm ào ra. Một bàn thờ đơn
sơ. Mâm ngũ quả. Bát hương, dày đặc chân nhang. Những que hương cháy hết uốn
cong cong ôm
lấy bát hương y như những
bông lúa cháy đen ôm gốc rạ sau vụ hỏa
hoạn.
Bức
chân dung Kim Ngọc trịnh trọng trong bộ vét. Tóc rẽ ngôi lệch cổ điển.
Khuôn mặt chữ điền,
mắt sáng, hồn hậu.
Đâu đó ẩn trong khóe miệng nụ cười
hơi giễu cợt
nhưng viên mãn. Kim Ngọc đang chào một ai đó. Kim Ngọc đang khuyến khích một ai đó. Kim Ngọc đang chờ đợi
một ai đó. Rõ ràng người trong ảnh đang rất tự
tin và chẳng hề lo nghĩ bất cứ
điều gì. Có vẻ như
ông đã chụp ảnh trước khi đi dự hội
nghị hay là chuẩn bị
bước lên máy bay. Bay cao.
Tôi có cảm giác nghi ngờ về
những thông tin ông xuất thân từ nông dân, am hiểu nông dân như là hiểu những vết xước
trên mỗi ngón tay mình. Trông ông cứ như
là cán bộ đối ngoại chuyên nghiệp.
Cởi
áo khoác, hai sĩ quan nhìn quanh tìm chỗ treo áo. Tôi nhanh nhảu định
đỡ áo, thì người đàn bà đã vội đón trước tôi, móc lên chiếc móc gắn trên tường ngoài hiên. Tôi nghĩ thầm, đó là chiếc móc áo những ngày trước bà Lê Thị
Liên vẫn thường treo móc áo cho chồng. Trung tá nói.
- Thưa chị Kim Ngọc. Tôi quen anh nhà từ hồi
anh làm Cục trưởng dân quân tự vệ.
Còn anh Chiển vốn là chiến sĩ cũ của anh ấy. Năm ngoái anh mất, tôi ở xa. Hôm nay nhân ngày rằm và cũng là dịp tôi được điều về
nhận nhiệm vụở gần đây, hai chúng tôi xin chị, cho phép chúng tôi được thắp cho anh Kim Ngọc nén hương. Những mong linh hồn anh phù hộ độ
trì cho đất nước. Phù hộ độ
trì cho người nông dân cơm no ấm áo. Mong anh siêu thoát.
Đặt
đồ cúng lên mặt bàn thờ đơn
sơ. Hai viên sĩ quan dàn ngang, rập gót giơ tay chào kiểu quân sự. Tôi đứng sau lúng túng giây lát mới có thể lóng ngóng làm theo. Bà Lê Thị Liên bất ngờ ngẹn
ngào, chắp tay đáp lễ.
Tôi lặng quan sát. Nhiều ảnh
đen trắng trong khung kính. Mấy tấm
bằng, khen, giấy khen, huân, huy chương gắn dọc
hai bên bức tường lồi lõm của gian khách chật hẹp.
Trong nhà chỉ có bộ bàn ghế kiểu
Minh triện, đơn giản, trang nhã làm bằng gỗ gụ
là trau chuốt. Nước vối
nóng hổi rót liền trong ấm giỏ. Đĩa kẹo chanh Hải Châu đã lọt gió, thuốc lá Tam Đảo trịnh trọng mời khách.
Bộ
ghế có bốn chiếc. Tôi không dám ngồi ngang với chủ nhà. Vả lại,
trước mặt tôi bên kia bàn đã là hai vị thủ
trưởng khả kính. Lùi sát cửa, tôi ngồi trên chiếc ghế đẩu
gỗ tạp cập
kênh. Bốn chân ghế không bằng mà nền gạch
lát cũng là thứ gạch nung thiếu than lửa nên cong vênh thất thường.
Bà Liên mấy lần
giục tôi chuyển chỗ ngồi
cho tiện ăn kẹo uống
nước. Biết không thể lay chuyển, bà liền nhón ba bốn chiếc kẹo
thân tình đặt vào lòng tay tôi, chẹp miệng:
- Gày xanh như thế
này thì đi giữ chốt làm sao. Ăn đi con…Tuổi này thì bữa cứ
phải bảy bát cơm trắng, niêu cá kho, nửa rổ
xề rau muống thì khỏe như ông voi hết…
Hai thủ trưởng
của tôi lảng cái nhìn đi đâu đó.
Câu chuyện rời
rạc, khó ăn nhập. Toàn chuyện gạo,
lúa, bo bo, thời tiết, sức khỏe họ
hàng đôi bên. Họ cứ
muốn nói to một điều ấm
ức nào đấy mà không tiện. Không thể kết
thúc ngay câu chuyện. Nhưng để kéo dài câu chuyện thì lại không biết bám víu vào đâu. Trong ánh mắt ba người từng
trải qua hai cuộc chiến gần
suốt cuộc đời,
tôi thấy bao nhiêu là sự ngậm
ngùi, cam chịu mà sẻ chia thông cảm. Họ vẫn
còn giữ được niềm tin vững chắc vào những chân lý thuộc về
lẽ công bằng. Tin vào niềm thiêng gọi là tình đồng chí.
Người
đàn bà nhìn lên di ảnh chồng, tĩnh lặng.
- Ông nhà cháu đã bảo với
tôi rằng, ông như cây lúa trổ bông cho hạt rồi.
Chỉ còn rạ với
rơm. Rạ thì cày ải úp xuống cho đất ruộng thêm tơi nhuần. Rơm thì phơi khô dự trữ
cho trâu bò tăng sức cày kéo mùa vụ.
Thiếu
tá Nguyễn Ngọc Chiển ái ngại:
- Vĩnh Yên còn mênh mông ruộng đất. Sao anh chị không chọn điểm nào bằng phẳng, gần đường,
gần chợ cho tiện sinh hoạt. Đây tuy cao, nhưng là chỗ lò chum vại cũ, xung quanh hãy còn mồ mả,
lối vào lầy thụt…Già cả rồi
mà anh chị lại chọn chỗ chông gai đểở…
Bà Lê
Thị Liên cười hồn
hậu:
- Ông Kim Ngọc
bảo ruộng đất rồi
sẽ quí lắm. Không phải vô cớ ông cha nói tấc đất
tấc vàng. Nếu thích lấy chỗ bằng
phẳng đông vui thì phải xén vào ruộng đất canh tác. Ông ấy thích có vườn rộng.
Mơ sẽ có một vườn
táo sum sê. Muốn tự mình thực hiện khoán quản cho mình ngay trên mảnh đất mình khai hoang vỡ rậm…
Dường
như hồn Kim Ngọc đã trở về.
Nụ cười bỗng
rạng trên gương mặt héo khô của cô sơn nữ
xứ Tuyên thuở nào. Hào hứng bà bước ra hiên chỉ tay ra mấy phía vườn:
- Trước khi về hưu,
ông Kim Ngọc đã nhờ mấy
chú bên Xí nghiệp cơ khí Vĩnh Yên rèn, nào cuốc bàn, cuốc chim, nào xẻng. Mấy ông già Sán Dìu bạn thân thuở tá điền trong Thanh Lanh mang cho mấy khúc tre đực làm cán. Tôi và ông ấy, tự khoán mỗi ngày cuốc 4 mét vuông vườn, nhặt sạch
sỏi đá, mảnh sành, mảnh vại. Đứa cháu gái con thằng cả cũng theo ông bà ra vườn. Cháu nhỏ nhưng
cũng biết gom nhặt mảnh sành, mảnh vại giúp ông giúp bà. Chẳng may, tay cháu bị cứa
đứt, máu chảy tóa ngón tay. Cháu cứ giơ
lên trời kêu khóc sợ hãi. Ông Kim Ngọc
nhà tôi lấy vạt áo lau sơ qua bùn đất trên ngón tay cháu rồi đưa
vào miệng ngậm một
lúc rồi mới băng bó. Lúc sau cháu hỏi tại
sao ông lại ngậm ngón tay đầy những máu. Ông cháu bảo rằng:
Cháu là máu thịt của ông bà. Máu của cháu cũng là máu của ông bà. Tay chảy máu ngậm vào miệng mãi cũng hết chảy cháu ạ…
Gió thổi bùng mái tóc pha sương thoát khỏi vành khăn len, xòa kín mặt người đàn bà. Hình như trong khóe mắt bà có nước mắt,
nhưng trên môi bà sao tôi lại thấy nụ
cười rạng niềm tin.
Câu chuyện tôi nghe bập bõm ngày xưa về
khoán trong nông nghiệp và số phận
người đảng viên Kim Ngọc, khai sinh ra nó là đề tài lúc rầm rì lúc công khai ở mỗi tổ
đội sản xuất, ở
mỗi quán nước chè, quán cà-phê trong suốt mấy
chục năm, suốt từ
Móng Cái đến Mũi Cà Mau.
Và, cho đến thời điểm này, khi người nông dân toàn quốc, đã thừa lúa gạo xuất khẩu, họ dù không biết chữ, hay nghễng ngãng điếc lác còn biết Kim Ngọc là ai, thì dường như vẫn
chưa có hồi kết
câu chuyện về ông. Người ta đang hồi cố
về Kim Ngọc với
bao nhiêu niềm vui và nỗi buồn.
Ruột
thịt quanh tôi phần đông là nông dân nên ít nhiều tôi thấm hiểu thế nào là sự biết
ơn của họ
với nhà cải cách Kim Ngọc. Và, chính tự thân tôi cũng muốn một
lần chính thức cảm
ơn ông, với tư
cách một con người với
một con người. Ông làm vợi bớt
đi bao nhiêu là gánh nặng trách nhiệm lo toan bất lực
của tôi với người thân ở làng ở xóm, vì thóc nghĩa vụ. vì chỉ tiêu lợn hơi.
Và, những người thân của tôi ở xóm ở làng cũng không còn thắc thỏm thương con thương cháu ở thành phố ăn gạo hẩm,
hay sắn khô mốc.
Ở mỗi
bến tàu bến xe không còn cảnh bà mẹ nông dân còng lưng van xin quản lý thị trường
khi mang theo một vài cân chè khô. Những chuyện thật mà ngỡ như
không có . Không ngờ phải mất
khoảng thời gian tính cho một thế hệ
trưởng thành, tôi mới có lý do để trở
lại ngôi nhà mà nhà cải cách nông nghiệp Kim Ngọc đã sống mấy tháng cuối đời.
Tham vọng lý giải hiện tượng
Kim Ngọc với vô số câu hỏi và nhiệm vụ
tự đặt ra, tôi những mong điều đó khiến mình yên lòng. Và, phần nào giúp bạn đọc phác họa chân dung người dám xác quyết hy sinh sinh mạng chính trị đang thăng tiến vì bát cơm của
mỗi người nông dân. Một người dám nói ngược chân lý chính thống nuôi dưỡng ý chí thích công to, việc lớn
và lòng tự hào của cả
một quốc gia đang nồng nàn, phăng phăng cuộn chảy, phấn đấu
cho thế giới đại
đồng.
(Kỳ sau đăng tiếp)