Anh không về thật rồi
không tìm café bụi đời khác
chỗ ngồi đó
quê hương đó
đã hoang vu.
(Vũ Trọng Quang)
Khuya thứ bảy 17-8-2013, anh Nguyễn Quốc Thái gọi từ Quận Cam báo tin sắp lên San José thăm nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đang trong cơn bạo bệnh. Tình trạng sức khỏe của thầy tôi đã nghe mấy tuần nay, đã xem thủ bút của thầy “Tôi không còn thời gian”, nhưng tôi vẫn tin Ơn Trên còn cho thầy phép lạ.
Thầy Nguyễn Xuân Hoàng và thầy Nguyễn Trọng Văn là hai người thấy giáo mà tôi quý mến cùng dạy lớp 12C3 của chúng tôi ở Trường trung học Trường Sơn, Sài Gòn. Thầy Nguyễn Trọng Văn dạy luận lý học (lô-gích học), thuộc khuynh hướng “dấn thân”, thường cộng tác với các báo khuynh tả. Thầy Nguyễn Xuân Hoàng dạy tâm lý học, gần với khuynh hướng “viễn mơ”, làm báo thuần túy văn nghệ. Nhưng cả hai thầy đều để lại trong tôi những ấn tượng tốt đẹp về tư chất của người trí thức.
Dạo đó thấy Văn vừa có bài thuyết trình gây chấn động ở trường Đại học Văn khoa: “Phạm Duy đã chết như thế nào?”, sau đó được nhà xuất bản Văn Mới in thành sách. Ý kiến của thầy gây ra tranh cãi: người tán thành thì đồng tình với việc phê phán người nhạc sĩ đã sửa lời những bài ca kháng chiến; kẻ phản đối thì cho đó là thái độ “chính trị hóa nghệ thuật” và bất công với người nghệ sĩ. Hơn 40 năm sau, đọc lại những gì Nguyễn Trọng Văn viết về Phạm Duy, dễ thấy là hoàn cảnh cực đoan lúc đó đã dẫn đến những nhận xét nặng nề, nhưng tự trong thâm tâm người viết vẫn trân trọng tài năng của nhạc sĩ và muốn đặt Phạm Duy giữa lòng dân tộc. Một lần, trong lớp tôi, chính thầy Văn đã say sưa nói về những kỷ niệm liên quan đến bài hát đậm chất dân ca “Tóc mai sợi vắn sợi dài” của người nhạc sĩ ấy. Và thật là một nghĩa cử đẹp: sau hơn 30 năm, một trong những người đến thăm Nguyễn Trọng Văn nằm dưỡng bệnh tại nhà sau cơn tai biến chính là nhạc sĩ Phạm Duy khi mới hồi hương.
Thầy Nguyễn Xuân Hoàng thì khác. Thầy yêu nhạc Phạm Duy, cũng như Trịnh Công Sơn, và muốn tách con người nghệ sĩ Phạm Duy ra khỏi con người chính trị của ông. Và thầy Hoàng thật ra cũng không phải là nhà văn “viễn mơ”. Trong cái năm 1972 nhiều biến động ấy, thầy nhận lời ông Nguyễn Đình Vượng thay nhà văn Trần Phong Giao điều hành tạp chí Văn trên cương vị thư ký tòa soạn. Cũng năm đó, thầy viết một truyện ngắn có chất tự truyện nhan đề Cha và anh đăng trên tạp chí Vấn đề của Vũ Khắc Khoan, hoài nhớ về những ngày kháng chiến chống Pháp, trong đó trích lại mấy đoạn trong bài Bà mẹ Gio Linh của Phạm Duy. Vì việc ấy, tạp chí Vấn đề bị tịch thu và tác giả Nguyễn Xuân Hoàng bị gọi ra hầu tòa.
Không biết truyện ngắn đó có phải là cách đối thoại tế nhị của thầy Hoàng với thầy Văn hay chăng; nhưng dù không tán thành sự chọn lựa của đồng nghiệp, trong trường hai thầy bao giờ cũng nể trọng nhau. Hai ông thầy đều cao lớn, đẹp trai theo cách riêng: thầy Văn râu quai nón, uy nghi, đường bệ, giọng nói chắc nịch, đi xe hơi Volkswagen tới trường; thầy Hoàng dáng thư sinh, pha một chút “bụi đời”, đi xe máy Lambretta màu trắng, buổi chiều bao giờ cũng đến trường thật sớm, ngồi chờ ở văn phòng trước khi vào lớp. Ngoài bài giảng, thầy Văn thích nói chuyện xã hội; thầy Hoàng chỉ nói chuyện văn nghệ, triết lý. Một lần, nhân nói về cuốn sách Nói với tuổi hai mươi của Nhất Hạnh, trong đó tác giả trao đổi thân ái với Phạm Công Thiện về vấn đề lý tưởng, thầy Hoàng đưa ra so sánh rất thú vị và sâu sắc về hai tu sĩ Phật giáo nổi tiếng này; thầy nói thầy yêu quý cả hai, nhưng nếu chọn lựa một hướng suy nghĩ tích cực cho cuộc đời, thì thầy chọn Nhất Hạnh.
Thầy Nguyễn Xuân Hoàng không thích uống rượu, vì tình bạn mà thầy hay ngồi với nhà thơ Tạ Ký ở quán rượu bên chợ Đũi. Thầy chỉ thích cà-phê, nhất là thích nhìn những giọt cà-phê sóng sánh rơi xuống đáy ly. Rượu thường làm người ta hưng phấn, bốc lên; cà-phê giúp người ta trầm tĩnh, đằm xuống. Nguyễn Xuân Hoàng là người nghệ sĩ đích thực, nhưng tư chất nhà giáo đặt ra những giới hạn không thể vượt qua cả trong cuộc đời lẫn trong nghệ thuật. Hình như A. Camus bảo nghề giáo là chỗ sa lầy của nhà văn chính là theo nghĩa này. Khi tiểu thuyết Kẻ tà đạo được xuất bản sau khi đăng nhiều kỳ trên một tờ báo, có người hỏi thầy: “Kẻ tà đạo là ai?”, thầy tự trào: “Kẻ tà đạo là tôi đó!”. Thật ra, Nguyễn Xuân Hoàng vẫn là người coi trọng cái đạo trong đời và trong văn. Sau này, trên đất Mỹ, theo lời kể của thầy, có lần hai người đang ngồi trong quán cà-phê, Phạm Duy bỗng xô ghế đứng dậy bỏ đi giữa chừng, vì nghĩ rằng Nguyễn Xuân Hoàng không thích con người ngoài đời của ông. Một câu chuyện khác chứng tỏ cái đạo của người làm báo: Khoảng 1972 Nguyễn Xuân Hoàng về Nha Trang phỏng vấn nhà văn Võ Hồng, bài báo chỉ có một câu nói vui về chuyện “đi bước nữa” của nhà văn mô phạm “lắm mối tối nằm không” này mà khiến ông hờn dỗi, làm người phỏng vấn phải vội vàng “nói lại cho rõ” ngay trên số báo sau: “Nha Trang, Võ Hồng và không có ai là phu nhân”.
Tôi đã đọc hết những truyện ngắn và tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Hoàng in trước 1975: Mù sướng, Sinh nhật, Khu rừng hực lửa, Kẻ tà đạo, Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu... Riêng sách thầy in ở nước ngoài tôi không có đủ, nên chưa thể viết một bài về sự nghiệp văn học của thầy. Nhưng tôi tin rằng không sớm thì muộn, sách của thầy sẽ được chọn lọc tái bản trong nước, như trường hợp Bình Nguyên Lộc, Nhật Tiến, Tràng Thiên, Lê Tất Điều, Phan Văn Tạo, Nguyễn Mộng Giác, Du Tử Lê… Tôi yêu thích và vẫn còn nhớ từng đoạn văn tùy bút của thầy trong cuốn Ý nghĩ trên cỏ. Sau này, viết tản văn, tôi biết mình chịu ảnh hưởng những bài của thầy như Nếu buổi sáng hôm nay, Quá khứ một lần nữa, Uống rượu ở chợ Đũi, Những trái cao su ở Sài Gòn... Tôi đã gửi tặng thầy tập sách mỏng của tôi và vui sướng báo tin với thầy, cách đây hai năm, cô giáo Lê Trà My, với sự hướng dẫn của giáo sư Trần Đình Sử, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ về thể tản văn và sau đó đã chọn tác phẩm của Nguyễn Xuân Hoàng in trong tập Tản văn Việt Nam hiện đại. Gần đây nhất, báo Lao Động cuối tuần cũng in lại truyện ngắn Ở quán cà-phê Starbucks mà thầy mới viết.
Sau 1975, những người trí thức ở miền Nam đều gặp khó khăn về đời sống, Nguyễn Xuân Hoàng viết cho báo Tin sáng với bút hiệu Nguyễn Mai Khôi. Hồi đó công chúng Sài Gòn chưa được thưởng thức nhiều sản phẩm nghệ thuật đa dạng như bây giờ, có lần tôi gặp thầy đến Phân viện tư liệu điện ảnh ở đường Phan Kế Bính để xin vé xem phim. Một lần khác, tình cờ gặp thầy cô ở nhà hát Trần Hưng Đạo, trông thầy rất vui và tỏ ra thú vị với vở kịch Vụ án Erostrat. Từ khi định cư ở Mỹ năm 1985, thầy tiếp tục viết văn, làm báo, tham gia giảng dạy văn học Việt Nam ở Đại học California, góp phần tục bản tờ tạp chí Văn cho đến năm 2008 mới đình bản vì lý do tài chính. Sang năm là kỷ niệm 50 năm ra đời, tờ tạp chí văn học này có những đóng góp quan trọng trong việc giới thiệu các khuynh hướng, trào lưu và tác gia lớn trên thế giới, góp phần hiện đại hóa văn học ở miền Nam trước 1975, “thực sự làm sống dậy một đam mê chữ nghĩa của nhiều người viết trẻ”, như thầy Hoàng nhận xét. Không phải ngẫu nhiên mà gần đây, trong các trường đại học và các viện nghiên cứu, tạp chí Văn là một nguồn tài liệu tham khảo đáng tin cậy cho các luận văn, luận án về văn học.
Cách đây 9 năm thầy có gửi cho tôi bức ảnh chụp ở Thung lũng Silicon, trông còn phong độ, vậy mà nay thấy tóc thầy bạc trắng. Năm ngoái nhân một đồng nghiệp ở trường đi trao đổi khoa học ở Mỹ, thầy gửi sách mới cho tôi. Thầy còn hẹn sẽ về Sài Gòn, thầy trò đi uống cà-phê một bữa. Tôi đã chuẩn bị photocopy tặng thầy một bài luận về chủ đề “sự lãng quên” và học bạ lớp 12 của tôi có lời phê, điểm số và chữ ký của thầy cùng với toàn bộ tập bài giảng tâm lý học in ronéo thầy soạn cho lớp mà tôi lưu giữ cẩn thận suốt 40 năm qua. Tôi cũng ước mong lần tới thầy về nước sẽ cùng thầy thăm lại Nha Trang, thành phố nhiều kỷ niệm tuổi thơ không yên ả trong trí nhớ của thầy: “Nha Trang, đó là một thành phố của tình yêu và chia biệt, thành phố của những mối tình mùa hè, của những con sóng biển vô tình, những con dã tràng trên cát, những dấu chân bị nước cuốn đi không để lại một vết tích nào như thể trước đó nó không hề tồn tại […]. Bãi biển đẹp nhất trên thế giới là nơi tôi tìm đến những ngày trốn học. Núp dưới bóng những gốc cây dừa, nằm giữa lùm cây trong rừng dương hay ẩn mình trong hốc đá Hòn Chồng, tôi khám phá ra đời sống là một chuỗi những hạnh phúc và đớn đau, hay những đớn đau-hạnh phúc. Tôi thấy sự cô đơn trong đám đông và thấy cả nỗi ấm áp tình người trong sự cô độc”.
Nhưng bây giờ đây những dự định đó đã không còn kịp nữa.
Trong cuốn Đoạn đường chiến binh, nhà văn Thế Uyên, một người cùng thế hệ vừa từ trần tháng 6 năm 2013, kể rằng hồi chiến tranh có lần Trịnh Công Sơn đặt câu hỏi: “Khi đất nước thanh bình, bạn bè hai bên trở về, sẽ ra sao nhỉ?”. Thế hệ đó đến nay vẫn còn nhiều người thất lạc quê hương, thất lạc bạn bè. Nguyễn Xuân Hoàng thường viết hai từ “Hẹn gặp” để tiễn biệt một bạn văn vừa ra đi: “Nghĩ cho cùng trên đời này tưởng là chia tay mà vẫn là gặp gỡ và tưởng là gặp gỡ đôi khi đã là chia tay. Con người giống như những hạt bụi bay tán loạn giữa bầu trời và tình cờ gặp nhau, rồi những cơn giông bất ngờ ập đến bắn tung ra, những hạt bụi lại rời nhau bay về những phương hướng khác. Những hạt bụi có còn gặp lại nhau không hay mãi mãi không bao giờ tái hợp?”.
Nếu có thế giới bên kia, liệu những người đã khuất có còn dịp ngồi lại với nhau để nói tiếp câu chuyện dở dang của những người trí thức đã kinh qua cơn tao loạn của lịch sử?