CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
TRANG VIẾT CỦA BẠN

GIẢI NHẤT "CỌ NIÊU" CHO NỒI THỊT GÀ NẤU ĐÔNG - VÂN ĐÌNH HÙNG

Thứ bẩy ngày 25 tháng 1 năm 2014 12:00 AM

Vào chập rét đậm cắt da cắt thịt, ngọn lửa bên bếp hồng đêm giao thừa làm cho lòng ta ấm lại. Gần bốn mươi năm, kể từ ngày ông ngoại tôi còn sống. Tôi nhớ như in cái Tết cuối cùng được nhận tiền mừng tuổi từ tay ông…

Đó là ngày tháng Chạp năm Kỷ Hợi, bên thềm năm Canh Tý - năm con chuột vàng. Tết đến chậm rãi như ông từ vào đền. Chợ phiên quê tôi họp vào ngày ba ngày tám. Hai mươi ba Tết, ông Táo công chầu giời. Ngày ấy người ta không thả cá chép xuống sông, xuống ao như bây giờ. Người đi chợ huyện đông như kiến cỏ, chen vai, thích cánh. Mua thì ít, xem là nhiều. Có lẽ người ta đi chợ Tết để hưởng cái không khí háo hức chuẩn bị đón năm mới chứ không chủ định  sắm sanh. Hàng quán ngồi la liệt từ cổng đình ra tận ngã ba, tràn cả ra đường quốc lộ. Các lái xe qua chợ Tết thời chưa có luật giao thông ấy thường gặp những phen hết hồn. Ông dắt tôi đi nhanh qua đám hàng lá, đến hàng sành mua vội mấy con cá bằng đất nung về treo vào cây nêu, lúc gặp gió các con cá khánh va vào nhau phát ra tiếng kêu lanh canh. Xong việc, hai ông cháu tôi về thẳng nhà, sợ chợ đông vỡ mất cá khánh, hỏng mất cây nêu.

Đàn gà mới nở hồi tháng chín lúc đang gặt rộ, đến nay đã lớn trông thấy. Con nào con nấy đẫy đà, lông óng, trông thích mắt. Ông tôi vãi một nắm thóc kẹ, các cô, cậu tranh nhau mổ. Tiếng mỏ chạm xuống mảnh sân được lát bằng gạch lục Bát tràng nghe vui tai. Nhặt hết thóc, chúng lại dạt ra mảnh vườn nhỏ trước nhà để bới giun. Ông nhìn chúng xem ra hài lòng lắm. Chúng là hy vọng của ông khi Tết đến, là nguyên liệu không thể thiếu của nồi gà nấu đông.

Sáng ba mươi Tết, bà tôi chuẩn bị lá dong, gạo nếp cái hoa vàng, đậu xanh, thịt lợn, lạt giang hai loại. Một loại thường, dùng để gói bánh. Một loại nhuộm màu đỏ để buộc sau khi bánh chín bày bàn thờ. Không khí ngày ba mươi Tết thật kỳ lạ, khó tả. Ai cũng mong đợi, phấp phỏng, nhủ thầm và cứ lặng lẽ chuẩn bị những chuyện không đâu nhưng lại cho là không thể thiếu. Một cành đào chặt từ gốc cây đào già đem vào cắm lọ. Vài bông hải đường hàm tiếu ... Trong xóm tiếng lợn kêu khi đang bị chọc tiết, tiếng gà quang quác vì bị đuổi khi vừa xổng chuồng. Đó đây tiếng pháo tép đốt sớm của một vài cậu bé nghịch ngợm. Tết đang đến gần...

Ông tôi bận bịu với mấy con gà mái tơ, chuẩn bị cho nồi thịt đông ngày mồng một đầu năm. Những năm đó, mức sinh hoạt ở nông thôn không dư dật gì. Người ta chưa có lệ lên lão rầm rộ như mấy năm gần đây, phú quí sinh lễ nghĩa, một số nơi tổ chức lên lão khi mới tuổi năm mươi.

Sang năm mới ông tôi tròn sáu mươi theo tuổi điều tra dân số. Còn ở quê tôi thì cộng thêm một tuổi mụ cho là sáu mốt - năm tuổi. Nhà ông tôi túng lắm. Thời trước ông làm ký lục ở một phủ hay huyện gì đó. Người trong xóm cứ gọi ông tôi là “cụ ký”. Cái tên đó không phải chức sắc trong làng, không phải các hàm phẩm của giới thương gia lắm tiền mua lý, mua nhiêu giành chỗ ngồi chốn đình chung khi có việc làng. Cụ ký, chỉ là người theo tây học, nhưng cũng biết vài chữ nho đủ thả hồn phóng túng lúc ngà say vào câu đối Tết viết lên giấy đỏ điều dán hai cột nhà, bên bàn thờ thần linh, gia tiên.

Ông chuẩn bị cho tuổi lục thập vi tiên của mình không ồn ã nhưng chứa đựng một dấu ấn khó quên.

Theo thông lệ, cỗ mừng xuân ăn vào trưa ngày mồng một Tết. Khách mời toàn con cháu trong nhà, một ông thông gia và ông hàng xóm sát vách. Chiều ba mươi, ông tôi làm thịt năm con gà mái tơ. Mỗi con chỉ lấy ra hai cái đùi, chặt vừa phải, ông gọi là tỏi gà. Các phần khác đem luộc, xé làm chân tẩy bát bóng, bát mọc, hoặc là một phần của bát bún thang, bát măng.

Làng tôi thời đó là làng có nghề gốm truyền thống. Sản phẩm là nồi, niêu, chậu, vại, chum, vò bằng đất, nung thành sành. Ông tôi chọn hai cái nồi đất bằng đáy mà người quê tôi gọi là cái chã. Chã đất có nhiều cỡ. Ông chọn hai chã vừa việc, xếp vào mỗi chã năm cái tỏi gà bày tỏa về năm hướng, nêm nước luộc thịt gà vào đun nhỏ lửa. Sau khi đã đun sôi sùng sục, ông vùi chúng vào tro nóng bằng mùn trấu cháy hết đang đỏ rực.

Sẩm tối, ông tôi gọi hai thằng cháu ngoại, là hai đứa lớn tuổi nhất trong đám cháu đến để ông giao việc. Gọi là giao việc nhưng đây thật sự là một cuộc thi rất lạ. Công việc đơn giản là mang hai chã đất nấu thịt gà đông đã để nguội ra lau thật sạch các vệt than, tro bếp bám vào khi đun. Tôi là thằng cháu được ông cưng chiều và đặt nhiều kỳ vọng. Không thể để mất lòng tin ấy, tôi âm thầm chấp nhận cuộc thi với ông anh con nhà bác. Mỗi đứa nhận một chã đất đã có thịt gà nấu đông ở bên trong. Khi đang lau, do tiếng pháo tép đì đẹt đầu ngõ, ông anh con bà bác cứ nhấp nhổm không yên, lấy giẻ lau vội cho qua chuyện rồi chạy ngay ra đầu xóm. Hồi đó không có những “Tide siêu sạch” hay các chất tẩy rửa như bây giờ. Tôi phải mang một ít tro bếp, trộn nước cho đủ sền sệt, thấm vào một đoạn ruột mướp già phơi khô rồi tỉ mẩn cọ. Ông lấy một miếng giẻ bằng vải trắng lau thử vào đáy chã đất tôi vừa đưa, thấy vải trắng tinh, liền gật đầu khen và chấm tôi thắng cuộc. Ông tuyên bố ngày mai tôi sẽ được ngồi bên cạnh ông trong mâm cỗ đầu năm. Lúc đó thật chẳng còn gì hãnh diện hơn.

Sáng mồng một Tết, không khí thiêng liêng, trang trọng của một ngày đầu năm chùng dần kể từ phút giao thừa điểm. Người ta nói Tết đang đi. Quá ngọ, ông thông gia sang chúc Tết. Như có hẹn trước, ông hàng xóm cũng sang chúc Tết. Thật ra ngày Tết nhà ai chẳng có cỗ, không nhiều thì ít, từ ba mươi Tết “thịt treo trong nhà”. Nhưng năm ấy là năm ông tròn tuổi vi tiên nên đã nhã ý mời trước. Mẹ tôi, bác, các cậu  tề tựu đông đủ. Duy chỉ bà dì lấy chồng xa nên mồng hai mới về. Lúc dọn mâm tôi để ý tìm món gà nấu đông mà tôi đã đoạt “giải nhất cọ niêu” mà  chưa thấy. Sau một tuần rượu, sau những lời chúc tụng, ông mới bảo bà tôi mang hai cái chã đất nấu gà đông ra. Tôi ngồi ngay sát bên tay phải ông, mắt không rời cái chã đất. Ông lại đòi thêm hai chiếc đĩa sứ Bát tràng cùng một con dao chuôi sắt. Cái chã mà anh tôi lau dối đã được bác tôi lau lại cũng sạch như cái chã do tôi lau vậy. Ông tôi úp chã xuống đĩa, rồi lấy cán dao chuôi sắt gõ nhẹ vào đáy chã đất đã lật sấp. Chã nứt ra thành mấy cái vệt dài. Ông nhẹ nhàng nhặt hết các mảnh đất nung vỡ. Nồi gà đông hiện ra như một quả bưởi trong veo, năm hướng xòe ra năm tỏi gà chín kỹ. Ông xắt thành năm phần. Thật tuyệt vời, năm tỏi gà đều đặn hé ra ngấn xương nhờ phần thịt co lại khi chín, biến thành chỗ cầm thanh nhã. Tôi hau háu nhìn vào tỏi gà nấu đông, bụng đã no vì các thứ bánh, mứt nên mặc dù ngon, lạ, cũng chẳng hào hứng. Tôi chỉ chờ ông tôi trịnh trọng tuyên bố “giải nhất cọ niêu” mà tôi vừa giành được chiều ba mươi. Ông tôi, bà tôi, các cậu, mẹ tôi và bà bác ai cũng “mở hàng” cho tôi bằng tờ giấy bạc mới tinh. Mỗi tờ chỉ mua được một bát xôi chè của bà hàng quà nhưng tôi thấy như mình có cả một tài sản lớn. Mẹ nhìn tôi bằng ánh mắt trìu mến và ấm áp hài lòng.

Đã gần sáu mươi mùa xuân đi qua, “giải nhất cọ niêu” luôn ám ảnh tôi. Tháng Tám âm lịch năm đó, ông ngoại tôi xa. Anh em chúng tôi không bao giờ được dự  cuộc thi nào như thế nữa. Mỗi năm đến ngày giỗ cụ, chúng tôi cứ kể mãi kể mãi về giải "cọ niêu" kỳ lạ mà có lẽ của duy nhất ông ngoại đặt ra. Xuân sắp sang rồi, hương vị bánh chưng, thịt gà nấu đông ngày nào cứ quyến luyến đâu đây.

V.Đ.H - Một ngày tháng Chạp


Ảnh: tư liệu  

Chia sẻ trên Facebook