CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Nghiên cứu - Phê Bình

THẢ THƠ

Thứ bẩy ngày 9 tháng 2 năm 2013 12:00 AM

Ngày Tết, vui xuân có rất nhiều thú chơi. Thả thơ cũng là một thú chơi tao nhã. Vừa vui vẻ, bất ngờ, thú vị, vừa giúp người đọc ngẫm nghĩ, ôn lại chút chữ nghĩa trong những ngày "tràn ngập" niềm vui "thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ"...

Vậy thả thơ là gì? Nếu ai đã đọc Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân chắc hẳn còn nhớ, cụ Nguyễn đã miêu tả rất kỹ thú thả thơ này. Đây là lời cô Tú, con gái cụ Nghè Móm giảng cho lũ học trò còn để chỏm của cha mình về cách thả thơ: "Thầy sẽ viết vào mảnh giấy trắng này một câu thơ bảy chữ mà chỉ có ... sáu chữ thôi. Còn một chữ thì để trống và thay vào đấy là một cái khuyên tròn. Cái khuyên tròn thay chữ đó thường gọi là chữ vòng. Đây này, chị lấy một câu làm ví dụ thì các em rõ ngay. Các em biết câu :" Quân hướng Tiêu Tương, ngã hướng Tần" đấy chứ? Ừ, thí dụ bây giờ định thả câu thơ đó... thầy sẽ viết vào mảnh giấy nhỏ này: Quân hướng Tiêu Tương, ngã ... Tần. Và khi ngâm câu thơ câu thất ngôn có sáu chữ đó lên thì thường phải ngâm: "Quân hướng Tiêu Tương ngã "vòng" Tần". Chữ "vòng" đây là thay vào chỗ để trống . Bây giờ nói đến những chữ thả ra . Thí dụ thầy thả năm chữ : cố, tại,  vọng, phản và thả luôn cả chữ cái chữ hướng trong nguyên văn. Thường chỉ thả năm chữ thôi... Muốn đánh chữ thì chọn lấy một trong năm chữ mà đánh... " (Thả thơ - Tuyển tập Nguyễn Tuân -Văn học, 1996, tập I, tr 60) .

Và ai cũng biết, nếu đánh trúng chữ thì sẽ thắng cuộc. Trò chơi này, sinh thời cụ Nguyễn cho là đã "mai một", nhưng nay người ta vẫn thấy được ứng dụng trong các cuộc thi như Kính vạn hoa, Bảy sắc cầu vồng, hoặc Đường lên đỉnh Ôlympia trên truyền hình cũng như trong các câu hỏi thi trắc nghiệm đấy. Ngày xưa, chơi thả thơ, ai đánh trúng thì được ăn tiền "đánh một ăn ba ,"kiểu "vui chơi có thưởng". Ngày nay chơi thả thơ cũng là một cách để nâng cao năng lực thẩm bình, cảm nhận văn chương, nhất là đối với các em học sinh giỏi. Câu thơ được chọn thả phải là câu thơ có chữ dùng tài tình. Chữ dùng để thả trong câu thơ ấy có thể thay bằng rất nhiều chữ khác đồng nghĩa hoặc gần nghĩa. Nghĩa là các chữ thả (phương án nhiễu) đều có thể đúng với câu thơ ấy. Đúng nhưng chưa phải là đúng nhất hay còn gọi là trúng. Trong văn đúng chưa hẳn là trúng. Để dùng được chữ trúng, đòi hỏi người viết phải lao động rất vất vả nhọc nhằn. "Văn học là nghệ thuật của ngôn từ". Lao động của nhà văn, xét đến cùng, là lao động chữ nghĩa, lao động ngôn từ, một thứ lao động nặng nhọc không kém bất cứ một thứ lao động nào khác. Vì thế Lê Đạt gọi nhà văn là "Phu chữ". Niềm vinh quang và nỗi đắng cay, vất vả của nhà văn cũng là ở đó. Nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ đời Đường từng tâm niệm: "Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu"(Chữ chưa làm người đọc kinh ngạc thì nhắm mắt chưa yên). Nhà thơ Bì Nhật Hưu (đời Đường) cũng từng nói:" Bách luyện thành tự - thiên luyện thành cú" (Trăm lần luyện mới thành chữ - Ngàn lần rèn mới thành câu). Giả Đảo, cũng lại một nhà thơ đời Đường, viết " Lưỡng cú tam niên đắc " (ba năm làm được hai câu thơ). Hèn gì người ta bảo ông và Mạnh Giao là hai người làm thơ như đi tù "Giao Đảo lưỡng thi tù". Nhà văn Nguyễn Tuân, người được xem là bậc thầy về ngôn ngữ Việt, đã chia sẻ một cách đầy thấm thía về nỗi cực nhọc của lao động chữ nghĩa :

"Đêm thanh vắng còn gì dễ sợ bằng trang giấy cứ trắng nguyên như thế cho tới gần hết đêm . Mà canh này nối canh khác, đêm cứ trôi đều trên cái trắng băng ấy. Mà thế nào thì sáng mai cũng phải sang được bờ bên kia cũng đang nhờ nhờ trắng một niềm toát bệch mồ hôi . Thấy nguyền rủa bè lũ hình tượng chữ nghĩa nó hè nhau từ giã mình, mình bỗng chốc là kẻ cùng đường bên sông chữ quạnh vắng thê lương ." (Con người Nguyên Hồng -Tuyển tập Nguyễn Tuân- Tập 3, nxb Văn học 1996 - tr 305)

Xem thế cũng đủ thấy cái giá phải trả cho chữ nghĩa là hết sức đắt đỏ. Nó được tính bằng mồ hôi và tâm não của người nghệ sĩ . Có khi phải trả bằng bằng máu và nước mắt. Tìm hiểu và thấy hết được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ văn chương chính là đã thấu hiểu hết giá trị lao động đặc thù của các nhà văn và đó cũng là khoái cảm mà văn chương mang lại cho mỗi người đọc… Thả thơ chính là một chính thức tôn vinh cái tài, cái đẹp của việc dùng chữ của nhà thơ và thử tài cảm thụ, thưởng thức của người đọc thơ.

Nhân những ngày Tết Quý Tỵ, xin thả ít câu thơ để mọi người cùng bắt chữ vào “vòng”. “Vòng” ở đây là dấu ba chấm trong mỗi câu thơ.

Câu 1:  Đẩy song đã thấy Sở Khanh ... vào  (Nguyễn Du )

Chữ thả :  chốn; chạy; lẻn; lủi; xộc  

Câu 2:  Bác Dương thôi đã ... rồi  ( Nguyễn Khuyến )

Chữ thả :  đi ; mất; chết; tịch; thôi  

Câu 3:  Lá vàng trước gió ... đưa vèo (Tản Đà )

Chữ thả :  khẽ, bỗng, sẽ, liệng, nhẹ

Câu 4:  Sống chăng một ... lửa tàn mà thôi (Tố Hữu )

Chữ thả :  ngọn, chấm, đốm, chút, ánh

Câu 5:  Trán ...rực nghĩ trời đất mới  (Nguyễn Đình Thi )

Chữ thả :  đỏ, sáng, cháy, toả, rạo

Câu 6: Mỗi lần nắng mới ... bên song (Lưu Trọng Lư )

Chữ thả: rọi, chói, chiếu, hắt, ánh

Câu 7 : Chiếc đảo hồn tôi ... bốn bề (Xuân Diệu )

Chữ thả : rộn, rộng, dội, rợn, dậy 

Câu 8 : Thăm thẳm trời xanh ... đáy hồ.(Nguyễn Bính )

Chữ thả : lộng, chiếu, rọi, ánh, tận

Câu 9:  Heo hút cồn mây súng ... trời.(Quang Dũng )

Chữ thả : sát, đụng, đội, ngửi, đẩy

Câu 10: Quạt mo ... khúc nghêu ngao thằng Bờm  (Nguyễn Duy)

Chữ thả : hát, gẩy, vỗ, lẩy, dạo 

Trong 10 câu trên cứ thả trúng một chữ cho một câu thì được 1 điểm . Hãy thả thơ cho đúng chữ và tự chấm điểm cho mình.

Bạn cũng có thể thử năng lực cảm thụ thơ thông qua việc tìm hiểu cách sử dụng chữ nghĩa bằng một cách “thả thơ” khác.  Hãy chọn một màu trong số các từ chỉ màu sắc sau để điền đúng vào các câu thơ có chỉ màu ấy nhưng còn để trống ( dấu ba chấm):

  • Với màu Trắng là các từ : trắng bệch, trắng toát, trắng bong, trắng tinh, trắng nõn, trắng xoá, trắng phau, trắng ngần, trắng muốt, trắng ngà, trắng hếu, trắng dã, trắng ngà, trắng nhởn, trắng nhợt, trắng bóc, trắng bốp, trắng lốp, trắng lôm lốp, trắng nuột, trắng ởn, trắng phếch, trắng trẻo, trắng trong ...

- Cầu trắng… đôi ván ghép ( Hồ Xuân Hương )

- Trắng ...  tràng giang phẳng lặng tờ ( Bà Huyện Thanh quan )

- Tiếc thay hạt gạo trắng...  (Ca dao )

- Rõ ràng trong ngọc trắng... (Nguyễn Du )

- Bữa thấy bong bong che trắng ...  muốn tới ăn gan (Đồ Chiểu )

- Có phải thịt da em mềm mại trắng... (Lâm Thị Mỹ Dạ )

  • Với màu Xanh có các từ : xanh um, xanh nhạt, xanh thẫm, xanh non, xanh lợt, xanh lè, xanh lét, xanh rờn, xanh rì, xanh lam, xanh biếc, xanh lơ, xanh mét, xanh ngắt, xanh ngăn ngắt, xanh rớt, xanh xao ...

- Hòn đá xanh... lún phún rêu (Hồ Xuân Hương )

- Cỏ non xanh... chân trời (Nguyễn Du )

- Lưng trời ai nhuộm mà xanh... (Nguyễn Khuyến  )

- Xanh cổ thụ tròn xoe tán (Bà Huyện Thanh Quan )

- Tháng tám mùa thu xanh… (Tố Hữu )

  • Với màu Đỏ gồm các từ : đỏ au, đỏ bừng, đỏ choé, đỏ chói, đỏ chót, đỏ chon chót, đỏ nọc, đỏ gay, đỏ hoe, đỏ hoen hoét, đỏ hỏn, đỏ hon hỏn, đỏ kè, đỏ khé, đỏ nhừ, đỏ khè, đỏ loét, đỏ lòm, đỏ lừ, đỏ lự, đỏ lựng, đỏ ngầu, đỏ ối, đỏ quạch, đỏ rực, đỏ tươi, đỏ ửng, đỏ cạch,  ...

- Cửa son đỏ … tùm hum nóc (Hồ Xuân Hương )

- Mắt lão không vầy cũng đỏ … (Nguyễn Khuyến )

- Má đỏ … lên đẹp lạ thường ( Hàn Mặc Tử )

- Đường quê đỏ… cờ hồng (Tố Hữu )

- Người tình nhân đỏ…. môi hôn  (Chế Lan Viên)

- Hoa gạo màu son đỏ…hồn  (Chế Lan Viên)

Chúng ta đều biết tính từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt hết sức phong phú và đầy sắc thái biểu cảm. Với các tính từ trên khi chuyển ngữ thường người ta chỉ thêm vào chữ très (Pháp) hoặc very (Anh). Chẳng hạn : xanh um, xanh rờntrès bleu ( rất xanh ) hoặc đỏ au, đỏ chót, đỏ rực được dịch là rouge vif ( rouge : đỏ, vif : tươi ), còn trắng toát, trắng bệchtrès blanc  rất trắng). Trong khi mỗi từ trên của tiếng Việt có một sắc thái biểu cảm đôi khi rất khác nhau, ví như trắng toát là thứ trắng chói mắt, trắng muốt là trắng sạch mà trơn nhẵn, trắng bệch là trắng mất sinh khí, trắng bong là trắng như mơí, trắng tinh là trắng nguyên chất, trắng xoá là trắng rộng khắp một vùng, trắng phau là trắng sạch sẽ, trắng ngần là trắng sạch và trong, trắng ngà là trắng quý phái, trắng hếu là trắng nhô ra thô bỉ, trắng dã là chỉ màu mắt kẻ gian giảo, trắng nhởn là trắng lố bịch (chỉ răng hoặc mắt )... vv. Và như thế sẽ là rất khó khi dịch những câu thơ trên ra một ngôn ngữ khác sao cho lột tả hết được sắc thái biểu cảm của các màu sắc ấy.

Đọc thơ, nghĩ về tiếng Việt, mới thấy yêu tha thiết và trân trọng hơn bao giờ hết cái “vốn hương hỏa”[1] mà ông bà tiên tổ đã để lại cho ta.


Hà Nội, những ngày lạnh cuối năm Nhâm Thìn



[1] Chữ của Nguyễn Tuân chỉ tiếng Việt.

 

Bình luận

        Rất hân hạnh, bạn là người đầu tiên gửi lời bình luận đến chúng tôi !
Gửi lời bình
  • Mã xác nhận
  •  
  • Họ tên
  • Email
  • Nội dung
Chia sẻ trên Facebook