
Đọc
Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế
giới, Haruki Murakami, Lê Quang dịch, Nhã
Nam & Nxb Hội Nhà
văn, 2010.
Tư duy
nhị phân (“nhị nguyên”
Âm-Dương vân vân...) có cái
tiện ích ít ai ngờ: vì đã chia đôi,
nó cho phép lắp ghép; chẳng hạn từ bộ
đôi thái cổ hồn và
xác cho đến cặp song sinh cùng trứng buổi sơ
kỳ hiện đại con và người, tới những phái sinh tinh tế hơn như
Con người là một con vật-lịch sử...
Nhưng
sự chia tách cũng là một biểu tượng cổ xưa về phân
vân, lưỡng lự. Theo đó thì việc chứng minh sự tồn tại của bản
thân con người nên là một nhận thức
gián tiếp, đi đường
vòng, thông qua việc xác nhận “phần
hồn” vốn là cái không thấy được để khẳng định “phần xác”
vốn là cái người vừa thụ hưởng lại vừa hay
hoài
nghi.
Cuốn
tiểu thuyết thật sự “tàn bạo diệu kỳ”
này của Murakami kể một câu chuyện sinh động như vậy, đem lại một trải nghiệm văn
chương “tàn bạo” về việc một ai đó trong chúng ta bỗng
nhiên bị rơi vào cái hố đen của tiềm thức
bên trong mình,
mất hết ký ức và nhân thân
trong một lựa chọn sống với cái Bản Ngã mơ hồ
và bí
ẩn.
Không ai - không nhân vật
nào - có tên tuổi trong câu chuyện
“diệu kỳ” này: một “toán sư” -
người đã được giải phẫu não để cấy những
con chip
siêu nhỏ biến hoạt động tư duy thành công cụ
mã hóa các dữ liệu dạng số, phục vụ “cuộc chiến tranh
thông tin” giữa các thế lực của nền
công nghệ cao; một
“ông giáo sư” cùng
“cô cháu gái mũm mĩm”, hai
“cô thủ thư” trong hai thế giới song song tồn tại, v.v...; nhưng
lại có rất nhiều tên các
bài hát, bản
nhạc, nhạc sĩ, nhà văn và tác phẩm văn học nổi
tiếng, các địa danh
liên đới ở thành phố Tokyo, có sở
thích cá nhân về màu sắc
và các thói quen ẩm thực, v.v... những chứng từ về sự hiện
diện cá biệt sinh động cụ thể của
các nhân vật, những chi tiết và
tình tiết nhân thân tách biệt với
con người, những
dấu vết của một tâm hồn đang đi đến chỗ chia tay không
hẹn ngày gặp lại với kẻ mang
tâm hồn ấy...
Nhưng
đừng hỏi kẻ đó là ai.
Có
thể rất nên hỏi: Tâm hồn là Ai?
Ngay
cả khi bạn đã đọc thấy các tình tiết về
sự tách rời của nhân vật “toán
sư” - người kể chuyện xưng
“tôi” ở đây - với nhân vật
Cái Bóng, “cái
bóng” của anh ta.
Một tình tiết nói lên ý nghĩa: khi
người với “bóng” tách rời,
chàng “toán
sư” vốn yêu thích, am hiểu rất rộng về
âm nhạc, từ khí nhạc cổ điển đến các dòng ca khúc hiện đại,
lại không thể nhớ ra dù chỉ một giai điệu giản đơn và gắn bó nhất trong ký
ức.
Thay
vào chỗ của âm nhạc là nỗi ám
ảnh của ký ức về âm nhạc; cũng tương tự, là
nỗi ám ảnh về tâm
hồn.
Nhưng
chắc chắn ta không nên chộp lấy cái
ý tưởng sáo mòn về một sự thèm
khát “tâm
hồn” - sự thèm khát mà ai
đó đã tưởng tượng rằng giống như trong một mệnh đề nổi
tiếng, là “linh hồn trong một thế giới không
có linh hồn” (K.
M).
Chẳng
có “sự giễu nhại” nào ở
đây. Murakami không hề đơn giản hóa sự chia
tách con người
trên bình diện hiện tượng. Có thể thấy được nụ
cười phê phán thấp
thoáng trong những trang dài nhân vật
“ông giáo sư” hùng biện
giải thích cho
nhân vật “toán sư” - mẫu
thí nghiệm thành công nửa vời của ông
ta - về các nghiên
cứu trên não bộ con người, đưa ra một chuỗi lập luận
nhân-quả pha trộn một số
ý niệm của điều khiển học, của các chuyên
ngành hẹp trong sinh học
hiện đại và của nhân học trong nghiên cứu
về tập tính; ngần ấy thứ đưa vào công cụ vạn năng của thời đại
là computer để cho ra một mô hình
xác suất về cấu
trúc của tư duy cá thể; và bước nhảy
siêu hình của nhà giả kim thuật hiện đại này được trình
diễn trơn tru: mô hình cấu trúc của tư duy
cá thể, xuất phát
từ vô số thực nghiệm mô hình hóa
các trải nghiệm của anh ta, thâu tóm
toàn bộ cơ chế của tri
giác và trải nghiệm nơi cá thể đó,
thì tức là cái bản ngã của anh ta.
Ta sẽ
nhớ rằng Murakami viết cuốn sách này vào đầu
những năm 1980. Deep-Blue lúc
ấy chưa ra đời để biến kho tàng cờ vua thành cơ sở
dữ liệu mà đấu với Kasparov;
khái niệm “trí thông minh
nhân tạo” - một nỗ lực mô phỏng bộ
não người cho máy
tính - mới xuất hiện trên chân trời thực tiễn
của điều khiển học và
ngành phỏng sinh học thì hình như chỉ vừa dứt
tiếng kêu Eureka! Tuy
nhiên sức mạnh vạn năng của computer vào
lúc đó đã không còn
có thể nghi ngờ,
và nền tảng cho sự can thiệp vào thế giới vi
mô đã được xây dựng ở cấp độ ống nghiệm.
Nụ
cười vừa lo âu vừa mỉa mai nhẹ nhàng đằng sau những
trình diễn-tiểu thuyết
cái báo cáo khoa học của nhân
vật “ông giáo sư” là: sau
hơn hai mươi năm phát triển
ngành sinh học phân tử, sinh lý học thần kinh
và sinh lý não nói riêng (chuyên ngành của
“ông giáo sư”) trên thực tế
người ta đã không khẳng định được giả thiết cho rằng các hoạt
động ý thức chỉ là kết quả trực tiếp của
các quá
trình thực thể trong não bộ.
Ý
thức, tựa như một thực-thể-khác, không thấy được,
vẫn lởn vởn ở đó, nhưng
không trùng khít với bộ não
và không thể mô phỏng
được.
Nhưng
nỗi lo lắng toát ra như mồ hôi của bản năng
sâu kín: tư duy nhị phân không muốn bị kéo vào một
giả hợp nhất nguyên, một mô hình nhất thống trả
giá bằng sự triệt
tiêu cái nửa kia của tồn tại - triệt tiêu
ý thức.
Nhân vật “ông giáo
sư” bảo “toán sư” rằng: “Thể
xác của anh có thể chết và ý
thức hệ của anh có thể mất
đi, nhưng tư duy của anh sẽ chuyển tiếp mãi mãi
khoảnh khắc trực tiếp trước
đó” (tr.428) - một ý tưởng
rõ rệt thừa hưởng giáo huấn thâm sâu của Phật
giáo, nhưng lại được đưa thành một giả thuyết cực đoan
: “Anh chớ quên anh
không chết, anh chỉ mất ý thức mãi
mãi” (tr.431).
Các mâu thuẫn hiển nhiên về
hình thức của nội dung những khái niệm “thể
xác”, “tư
duy”, “ý thức”,
“sống” và “chết” trong những
lập luận rất cuốn hút của “ông giáo sư” gặp nhau ở một
điểm: chúng khẳng định loại bỏ những bất trắc của tương lai; tương lai theo nghĩa chặt chẽ
nhất: là khoảnh khắc tiếp sau mỗi
“khoảnh khắc trực tiếp trước
đó”.
Tương
lai - đó là một tập quán thâm
căn cố đế của loài người; vì nó mà
người ta sống hoặc thấy cuộc đời
là đáng sống. Như lời một bài hát
cũ: “Những ngày xưa
thân ái. xin buộc vào tương
lai”.
Chúng ta trông tới và
trông lui theo cách ấy, trong khi Murakami kể chuyện này thành một biểu tượng kiểu Bayon:
đồng thời thấy cả hai hướng [và với Bayon bốn mặt thì cả hai hướng
cùng lúc tồn tại].
Tôi
không suy diễn những điều như thế. Mà trong cảm
quan kiểu vẫn được gọi là
“Phương Đông” như ở Thần đạo Nhật Bản, vẫn
luôn luôn sống động, thì vị thần bản mệnh của anh sẽ sống một cuộc đời song
hành như là phiên bản thần
thiêng của cuộc đời anh. Theo
đó, tương lai đồng hành với ta, và
nó là tương lai chỉ vì
nó biết trước cái “khoảnh khắc trực
tiếp” sau mỗi khoảnh khắc đang
trôi đi này.
Câu
chuyện sinh đôi trong Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và
chốn tận cùng thế giới đã xây dựng
trên mô thức
đó.
“Tôi tới thành phố vào một
ngày xuân” (tr.23), câu trần thuật
giản đơn và gợi cảm như vậy
bấm nút tắt chiếc đồng hồ sinh học thông thường của
nhân vật “toán
sư” - Xin chào mừng, quý
khách đã đến địa ngục!
Ở
câu chuyện song hành trên hàng
thứ nhất, thời gian sống của “toán sư”
trôi đi trong những biến cố
đảo lộn, những hành động khi căng thẳng gấp gáp khi
lững lờ bí ẩn;
còn ở câu chuyện hàng thứ hai - trong
cái “thành phố” lơ lửng như ở cõi hư vô kia -
thì chỉ có bốn mùa thay đổi, mà
thời gian không tồn tại nữa.
Làm sao có thể như vậy
được?
Bởi lẽ
những ai vào “thành phố” này
đều phải rời bỏ cái bóng của mình - một
“ông gác
cổng” vâm váp lạnh lùng sẽ
dùng dao tách bóng của anh ra khỏi anh,
tách bằng một đường rạch
trên đất dưới chân anh.
Chúng ta quen sống với cảm nhận một thời gian
khách quan, phi chủ thể. Muốn gạt bỏ thời gian, Murakami đưa nó
vào cái bóng.
Cũng chẳng
quá xa lạ: chúng ta vẫn quen nghe rằng “Thời
gian như bóng câu qua cửa
sổ” [có người bảo “như vó
câu”; tôi nghĩ “bóng
câu” mới là văn chương hơn, tức là thực
hơn].
Cái Bóng bị tách ra mang
theo thời gian. Và mang theo ký ức. Ở “xứ sở
diệu kỳ...”, điều kỳ diệu
là mỗi khoảnh khắc một hiện tại, cứ như thế đến vô
cùng, không thể
thay đổi nữa. Hiện thực hóa một khả năng cái triển vọng
kinh hoàng ẩn sau mơ ước
ngàn đời về sự bất tử.
Nhưng
chủ điểm của câu chuyện về “xứ sở diệu kỳ
tàn bạo...” không phải là vấn đề thời gian.
Thực
chất thì thời gian là quá lớn
và quá trừu tượng, khiến người ta phải nắm bắt lấy nó một cách
gián tiếp, thông qua một số biểu tượng hay vật biểu trưng.
Và ở đó ta lại
gặp tư duy nhị phân, với một hiệu ứng kỳ lạ: vật biểu trưng
gánh lấy hầu hết
gánh nặng giá trị và ý nghĩa, như
trong quan niệm nền tảng: không
thể có xác mà không
có hồn. Nhưng không thể có người mà không
có bóng lại là sự tái hiện mang tính
biểu tượng của Murakami đối với ý niệm có tính
chân lý cổ xưa
kia.
Thách thức-tiểu thuyết của ông
là việc nhân vật “toán sư”
chấp nhận việc chia tay cái
bóng của mình trước ngưỡng cửa cuộc đào
thoát khỏi “chốn tận cùng thế giới” - chia tay với thời gian
tính của mình, bỏ lỡ cơ hội quay về thế giới bình thường, nhân vật
tiểu thuyết này không phải đã thấy
“xứ sở diệu kỳ tàn
bạo...” là đáng để
sống.
Anh ta
nói với bóng, về ý thức
trách nhiệm của anh ta đối với cái
“thành
phố” quái gở này.
Mà
người ta khi nói đến trách nhiệm tức là
nói đến một kỳ vọng, dù nhỏ nhất, về một tương lai.
“Toán sư” chống lại một quan
niệm về con người hiện thân cực đoan ở
“ông
giáo sư”. Anh ta muốn chứng tỏ không phải
cái khoa học tinh vi của quyền lực
công nghệ, cho dù đã can thiệp
vào tận “lõi ý thức hệ”
và “cấu trúc tư duy” mà có thể
làm cho anh “mất ý thức mãi
mãi”.
Anh ta
có thể rơi ra ngoài con vật - lịch sử, nhưng anh ta vẫn
là một con vật - tương lai,
và như thế không có gì có
thể mất đi được./.
N.C.H