CHÚC MỪNG NĂM MỚI !!! NICO-PARIS.COM - Không gian Văn hóa - Giáo dục & Dịch thuật Văn học - Espace Culture - Education & Traduction littéraire
Không gian thơ Mai Văn Phấn

THƠ DƯƠNG KIỀU MINH MANG HƠI XUÂN TỪ NHỮNG CÁNH ĐỒNG

Thứ bẩy ngày 29 tháng 9 năm 2012 6:23 PM

Một sớm vắng
ùa lên khói bếp
về đây củi lửa ngày xưa...
(Dương Kiều Minh)

 

Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống, tên bài thơ thứ 240, xếp cuối cùng trong tập thơ Thơ Dương Kiều Minh (Nxb Hội Nhà văn, 2011) như tạm khép lại những giấc mơ lạ kỳ và tuyệt đẹp của chính nhà thơ. Giấc mơ ấy đã nhiều lần đậu xuống, đánh dấu quá trình vận động, cách tân và những cảm thức lạ lẫm của ông. Chỉ vừa xướng tên các tập thơ của nhà thơ Dương Kiều Minh (DKM), tôi như nghe rõ tiếng cửa mở vào những không gian mới lạ, tinh khôi: Củi lửa - Dâng mẹ - Những thời đại thanh xuân - Ngày xuống núi - Tựa cửa - Tôi ngắm mãi những ngày thu tận - Khúc chuyển mùa - Thơ Dương Kiều Minh [1])… Thơ DKM là một giọng điệu riêng biệt trong dòng chảy thơ cách tân sau 1975…

***

Củi lửa, tập thơ đầu tay của DKM (Nxb Tác phẩm mới, 1989) đã cháynổ, sức nóng phả lên đời sống văn học thời điểm này đang khá lạnh lẽo. Đó là tiếng nói biệt lập, run rẩy với nhiều tầng cảm xúc phức hợp, và, như chiếc đầu máy mới xuất xưởng có công suất lớn, Củi lửa đủ sức kéo theo những toa tầu chở nặng, và còn nối theo nhiều toa bất tận...

Tập thơ đầu tay thường đánh dấu điểm mốc quan trọng trong sự nghiệp sáng tác của những thi tài, hiển lộ hương sắc, và, cả hạn chế của người viết, mà sau đó, dù nhà thơ ấy có rẽ sang nhiều ngả khác, thì khả năng sáng tạo thường được tiên báo trong những trang viết đầu đời. Điêu tàn của Chế Lan Viên, Lửa thiêng của Huy Cận, Thơ thơ của Xuân Diệu; một số nhà thơ nước ngoài, như Adonis (Syria) với tập thơ Những bài thơ đầu, 1957; Pablo Neruda (Chile) với tập thơ Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng, hoàn thành lúc ông chưa đầy hai mươi tuổi v.v... là những ví dụ tiêu biểu.

Củi lửa của nhà thơ DKM là một ví dụ khác, là cánh cửa rộng, đột mở, đưa bạn đọc vào một ngày mới ngập tràn ánh sáng, với nhiều ý tưởng bất ngờ, tươi ròng cảm xúc và trong sáng đến nghẹn thở. Tập thơ được viết bằng thi pháp mới, chắc tay, được chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc biệt hơn, ở đó không có thái độ ngập ngừng, lưỡng lự - như một số tác giả cùng thế hệ còn ảnh hưởng những quan niệm của thi ca truyền thống - mà quyết liệt, đầy tự tin…

Không gian thơ của DKM bao giờ cũng là một không gian riêng, vì ngay trong nhiều hình ảnh quen thuộc như ô ban công, chùm mùng tơi, bông cúc, rèm cửa, cô gái mù, tiếng lá, bóng đêm, heo may, dòng sông, chiếc giày, mầm cây… cũng để lại những vệt vân tay và hơi thở nóng hổi của một DKM đầy sáng tạo. Về tập thơ này, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã chia sẻ sự đồng cảm của mình một cách chính xác và tinh tế: Khi đọc tập thơ đầu tay của Dương Kiều Minh, tập Củi lửa, tôi thấy thi đàn Việt Nam lúc ấy xuất hiện một giọng nói riêng biệt. Giọng nói ấy tách biệt khỏi rất nhiều những giọng nói khác đầy tính lệ thuộc. Giọng nói ấy vang lên trong sáng và quyến rũ, nhưng đầy cô đơn. Tập thơ Củi lửa của DKM đã tạo một dấu ấn quan trọng, trước tiên là với chính nhà thơ trong hành trình xác lập những giá trị của lối viết khác. Tôi từng đọc Củi lửa nhiều lần, trong nhiều tâm trạng khác nhau, và luôn bắt gặp ở đó sự thơ ngây mê đắm của nhà thơ trước sự khởi sinh, tái tạo của thế giới. Thiên nhiên và con người hiện lên huyền ảo và trong suốt, còn thi sĩ, đang ngơ ngác trở về thuở bé dại, ngỡ ngàng nhìn muôn loài muôn vật với tràn trề xúc cảm. Ngỡ vừa qua giấc mơ hoang dại/ cậu bé tìm lại đồng xu đánh mất ngày xưa/ đáy bể ngâm trong vắt/ ồ một vầng trăng vừa được vớt lên (Cám dỗ).

Nổi trội trong Củi lửa là sự tinh tế và huyền nhiệm. Đây cũng chính là vị riêng của thi sĩ. Trong những tập thơ về sau, mạch thơ DKM vạm vỡ, bung phá theo nhiều hướng khác nhau, nhưng luôn giữ được nét tế vi trong kiến tạo hình ảnh và tiết chế cảm xúc ở mức cần thiết. Đoạn thơ trích từ bài thơ Trong mưa là một minh họa cho sự mẫn cảm trước thế giới thơ tinh khiết, trong lành: Trong mưa có một ngôi đền/ và mưa từng ngón buông mềm mái tây/ và mưa từng ngón ngón gày/ len len run rẩy bàn tay gượng gàng (Trong mưa). Nhà thơ, như một điêu khắc gia tài hoa tạo hình chính xác từng chi tiết kỳ ảo và sống động: Mặt trời lung linh khu vườn mẹ/ Bức tường ánh sáng.../ Điều gì dào lên trong những hạt li ti (Hy vọng). Và kìa, đó là những ban mai vừa lộng lẫy tái sinh; kìa những đồng cỏ đầm sương chợt hiển hiện như trong cổ tích: Đâu phải nữa con búp bê bằng cỏ/ Con đường hoa vối rụng đầy/ Ban mai đổ về xa vắng/ đồng cỏ đầm sương lóa ướt dưới trời (Bản giao hưởng đồng quê). Sống và viết, nhà thơ DKM chọn cho mình một góc khuất im lặng. Ông quan sát, ghi chép và chậm rãi kể những câu chuyện đời theo ngôn ngữ của riêng mình: chiếc ô tô, ngôi nhà, ô cửa hoa loa kèn được đặt trong một khung cảnh tạo nên hình ảnh phố đêm dịu dàng: Chiếc ô tô màu xanh lá cây/ những ngôi nhà màu xanh lá cây/ ô cửa chớp bình hoa loa kèn đỏ (Thành phố buổi đêm).

Bài thơ Củi lửa, chủ điểm của toàn tập, như một chớp mắt để thức giấc bàng hoàng. Mở ra những hình ảnh gần gũi, ấm nóng như ta vừa được ôm ấp, được chạm tay vào. Và giữa tầng tầng hình ảnh, lớp lớp câu thơ là khoảng trống, một đặc sắc trong thi pháp thơ DKM: lăng lắc tuổi xuân/ lăng lắc niềm thôn dã/ bếp lửa ngày đông... Những hình ảnh tuổi xuân, thôn dã, bếp lửa ngày đông đứng cạnh nhau tưởng như rời rạc, phân rã, nhưng chúng được kết dính, đan bện lại trong một trường cảm xúc mạnh mẽ và nhất quán. Bạn đọc sẽ cảm thấy được ánh sáng thanh khiết, ấm nóng tỏa ra từ chính những khoảng trống đó. Đọc thơ DKM, ta ngỡ như ai đó liệng viên sỏi xuống hồ yên tĩnh làm các vòng tròn đồng tâm trên mặt nước cứ lan đi mãi. Như hình ảnh Bên những hoàng hôn loang lổ gò đồi/ mùi lá bạch đàn xộc vào giấc ngủ/ con về yêu mái rạ cuộc đời chính là sự giao thoa giữa hiện thực đời sống và thế giới kỳ ảo, của giấc mơ này đang mơ về những giấc mơ khác nữa, xa nữa... Bài thơ có khổ kết độc đáo, rất “DKM”: Một sớm vắng/ ùa lên khói bếp/ về đây củi lửa ngày xưa... Hình ảnh sớm vắng nhói lên như nốt cao nhất trong một nhạc phẩm không lời, làm phát sáng, làm âm vang đồng hiện những diễn tiến hình ảnh, rồi chốt lại trong câu cuối: về đây củi lửa ngày xưa... Bài thơ tuy khép lại nhưng ngay sau đó lại tạo liên tiếp những âm thanh vang vọng. Đó là trạng thái sâu lắng của cảm xúc, lôi cuốn người đọc vào thế giới của mặc tưởng trang nghiêm, nuôi dưỡng trạng thái rộng mở, cao khiết của tâm hồn. Cách viết này còn được triển khai trong nhiều bài ở những giai đoạn sau, tạo nên nét đặc trưng riêng chỉ có trong phong cách thơ DKM. Đó là ban mai trong tiếng ho húng hắng của mẹ: Những ban mai như thể đầu tiên/ ào ào đổ/ lấp lánh dòng ánh sáng/ mẹ húng hắng ho…/ mưa bụi dưới thềm (Ban mai). Đó là giọt sương treo trên cành trúc, sự đột biến để nâng cảnh huống thực lên cái cao vời của tâm tưởng: Rượu đây/ Bạn đấy/ Ta nâng cốc chạm làn gió đầu đông mang bí ẩn khởi lên xao động trong ngần tựa giọt sương treo trên cành trúc (Bên cuộc rượu mùa thu). Đó là bức tranh tương phản giữa đổ nát & thanh xuân đã thổi bùng sinh khí mãnh liệt: ấy ngọn lửa bùng dậy/ ngọn lửa cất giữ tháng năm xa cách/ ngọn lửa dìu các triều đại trườn qua đổ nát/ những thời đại thanh xuân. Đó là cách ông quán tưởng trong khoảng không tĩnh lặng của bài thơ Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu. Ở đó mỗi hình ảnh sự vật đều mở ra một không gian riêng. Cả bài thơ như cánh cửa lớn mà phía sau đó là vô vàn những cánh cửa nhỏ với đan xen những lối đi. Hãy cùng lắng nghe nhà thơ DKM gọi hồn sự vật: số phận giống câu thơ vừa viết xong, bị xoá/ bản nháp bài thơ gió nhấc lên tựa một lá bùa. Ở đây ta thấy DKM như hạt sương trong suốt cứ cố nép, ngấm mãi vào vạn vật làm cho chúng trở nên mát lành, trong suốt. Và nhân vật trở nên tỉnh táo trong một biến ảo rất lạ ở khổ kết của bài thơ: Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu/ tôi nằm viên mãn - chiếc lá vàng dưới hàng song thụ/ Nếu mẹ tôi mà biết/ Liệu mẹ tôi trách cứ các người(Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu). Sự biến ảo này cũng là cách gọi mời, kích thích sự sáng tạo tiếp theo của người đọc, tùy thuộc vào mặt bằng văn hóa và trải nghiệm riêng của họ.

***

Sau tập thơ Củi lửa, nhà thơ DKM luôn chú tâm khai triển thi pháp đã minh định từ tập thơ đầu tay. Ở những tập thơ Dâng mẹ, Những thời đại thanh xuân, Ngày xuống núi, Tựa cửa..., ông vẫn giữ được giọng nói trong trẻo, thơ ngây ban đầu. Này là một mùa vàng đầy bàng hoàng, như thể thế giới vừa bắt gặp trong cái nhìn đầu tiên: Mùa vàng, mùa vàng/ những ký ức không bao giờ lặp lại/ ta còn nguyên sơ hơi thở tự do (Những thời đại thanh xuân). Còn nữa, là giai điệu và tiết tấu của đời sống vừa phồn tạp vừa thanh khiết: Bài Ca Niềm Vui Sống/ ấy tiếng chuông cuối chiều dóng dả/ cơn lốc cuốn theo đám bụi nô đùa/ hai đứa trẻ dắt nhau chân trời xa tít. (Khúc dâng Mozart). Những bài thơ về sau, nhà thơ đã dần tiết chế sự trong trẻo, thơ ngây, để thế vào đó tâm trạng tỉnh táo đầy chiêm nghiệm thế sự: Ồ khát sao/ cơn khát thuở nhỏ/ cơn khát thuở khai thiên lập địa/ cơn khát ruổi dài theo mộng ước ta (Những thời đại thanh xuân).

Có thể nói, nhà thơ DKM phần lớn tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của thơ ca phương Đông kim cổ, thường mượn thiên nhiên, cảnh vật để nói về cái hữu hạn, mong manh chìm nổi của kiếp người: Ta hát về người niềm tưởng nhớ/ Sóng nước phù sa/ Tháng năm ruồng bỏ/ Ta chiếc lá cơ may trôi dạt lên bờ (Sông Hồng). Ánh sáng của văn hóa, triết học phương Đông, đặc biệt của thi ca, càng sáng tỏ trong những giai đoạn sau này, từ tập thơ Tôi ngắm mãi những ngày thu tận đến tập thơ Khúc chuyển mùa. Tôi ngủ thiếp trong bài thơ Đường/ sương dăng dầy bến bãi/ Vành trăng động mắt người con gái/ bức rèm buông tòa lâu đài Tàu (Bộc bạch). Ông nặng lòng vương vấn với những thi liệu quen thuộc của thơ ca phương Đông nhưng biết mở những chiều kích bất ngờ của liên tưởng và suy niệm trong thi tứ, chữ của ông bình dị nhưng có sức ám ảnh, và đôi khi, biểu lộ sự quẩn quanh phức rối của cảm xúc. Sức vươn của mỗi mạch thơ luôn khoẻ khoắn, nhịp điệu tự nhiên và tự do. Năm giờ sáng nước chảy tràn trên mái/ tựa hồ số phận ấn định/ thinh không buông tiếng chuông nhói ngực (Vô đề). Tôi chợt hình dung thấy hình ảnh một kẻ sĩ thời hiện đại đang tự vấn bằng giọng trầm, đều đều… cất lên trong quầng sáng lung linh và thanh sạch. Nhưng có một cảm giác rất lạ khi đọc liên tục nhiều bài thơ của thi sĩ, tôi lại thèm tiếng quát mắng, thậm chí tiếng cười khôi hài của ông với đám người đùa nghịch, hỗn xược nào đó…

Khác với tập thơ đầu tay, nhiều hình ảnh dung dị trong thơ DKM sau này được nhìn bằng hệ quy chiếu khác. Câu thơ sau làm ta hình dung DKM có lúc muốn hiện thân thành nhà tư tưởng hơn là một thi sĩ: Ôi, mưa đông, mưa đông! Cơn mưa lướt qua cuối chiều mang theo bao giấc mộng./ Một hạt mưa ghé sát nói nhẹ: Thân xác này thật ra đã được tạo bằng tư tưởng (Mưa đông).

Tập thơ Khúc chuyển mùa là ngôi nhà thơ để DKM trở về sau những chuyến du hành. Ở đây, ta gặp lại sự trẻ trung và điềm đạm, sâu sắc và thơ mộng: Lô xô những quãng đời/ Dựng men theo bờ nước/ Giật mình cơn mơ đêm trước/ Hiện về tuổi trẻ của ai (Chúng tôi gặp nhau ở bên kia hồ nước). Nhưng lần này, hình ảnh ruộng đồng, thôn dã tái hiện trong thơ ông mang vẻ đẹp và âm hưởng hoàn toàn khác trước: Đã lâu rồi không đi qua những cánh đồng sương sớm tươi mùi cỏ xuân những lá mầm vươn dậy mãnh liệt./ Vọng đến tiếng kèn buổi chiều giữa xuân trỗi dậy nỗi niềm xa vắng (Tự sự bên mùa). Cánh cửa một mùa xuân chín đã mở ra trước mắt nhà thơ DKM bằng âm điệu và hình ảnh mới, bền bỉ, với nguồn năng lượng thấm sâu tỏa rộng hơn: Niềm xuân thúc giục/ Niềm xuân mách bảo/ Niềm xuân vươn dậy cõi mênh mông tĩnh lặng/ Bóng lớn cây dã hương cổ thụ vươn cao giữa trời đất trong rạng rỡ ngày mới/ Thổn thức làn ánh sáng toả lan hơi thở xuân về (Giao thừa).

Ở khía cạnh khác, thơ văn xuôi là một thế mạnh của nhà thơ DKM. Sực nhớ núi đồi một trong những bài thơ văn xuôi đầu tiên tiêu biểu, và ở đây, đã hiện lộ nét ung dung, tự tại, cảm xúc tươi non được kiềm chế lại.  Mạch thơ trải rộng, câu thơ được kéo dãn với góc quan sát rộng, giàu liên tưởng. Tôi chợt nhớ núi đồi những đêm tĩnh lặng trong trẻo, ngôi sao xanh ánh sáng bị làn hơi ẩm tách ra thành nhiều sợi tinh khiết.../ Đêm đêm những nàng tiên cánh mỏng bay là là trên những cánh rừng và dòng sông hắt ánh sáng dìu dịu bờ dốc thoai thoải. Những hình ảnh trong bài dung dị, song có lúc lại như sao chép chi tiết của đời sống nhưng vẫn đậm tình cảm riêng biệt của người viết: Tôi mở ý tưởng thơ mộng chỉ thấy hình ảnh thế giới khô cằn. Mùa đông đến dài dặc, mùa xuân hiện gương mặt tiều tuỵ căn nhà chen chúc cũ nát. Có thể, trong bài thơ văn xuôi đầu tiên này, hiệu ứng ngôn ngữ và hình ảnh chưa cao, một số câu còn lẫn với cách nói của văn xuôi, khoảng trống trong thơ chưa lớn và chưa tạo được bất ngờ. Bài thơ này, không thấy in trong tập thơ Thơ Dương Kiều Minh, nhưng  theo tôi, đã đánh dấu sự chuyển biến trong thi pháp thơ DKM. Tuy nhiên, đó chỉ là những bước đi chập chững đầu tiên. Ở những bài thơ văn xuôi sau này, xét một cách tổng thể, ta nhận ra mạch thơ ngày càng vạm vỡ, tự do, tung tẩy hơn và đó cũng chính là cốt cách phong vận của ông. Nhiều bài thơ như cơn gió lớn thổi mạnh trên cánh đồng bất tận: Giữa thinh lặng mênh mông tiếng gió từ phía sông Đáy duổi qua con đê kéo ngang cánh đồng trước nhà hoà cùng tiếng côn trùng tiếng xào xạc cây lá tạo nên những giai điệu kỳ bí của đêm toả ngát hơi thở bí ẩn thiên nhiên và vũ trụ (Gửi bạn đêm cuối năm).

Không gian trong thơ văn xuôi DKM là những hình khối, những quần thể tượng đài độc đáo, gợi ta nhớ tới những biến tấu từ 7 mô-đun của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, mang đậm phong vị và triết lý phương Đông; bí ẩn, dựng lên bức tường cao ngất, tiếp nối, dọc ngang, gây choáng ngợp. Nhiều hình ảnh vừa mới thoáng hiện đã nhanh chóng đan lồng với những hình ảnh khác lớn hơn, dị biệt hơn: Ai vẫn đứng kia buổi cuối chiều giông gió, phố xá bời bời, hồn chia hai ngả. Vẫn ở đó ao đầm gò bãi, hiện về đây hiu hắt núi đồi. Niềm thương cảm quanh quất bao năm dâng ngùn ngụt núi rừng chập chùng dòng sông vách đứng (Tựa cửa). Và trong không gian này, cùng với cảm xúc, là những chiêm nghiệm về vũ trụ, trải nghiệm về nhân sinh… Hình ảnh, tưởng chừng giản đơn nhưng mỗi mỗi đều chứa đựng những ý nghĩa phổ quát. Chiếc lá sen khô trong câu thơ sau mang một vẻ đẹp của nhiều trạng thái cảm giác, mở cho bạn đọc liên tưởng khác về thiên nhiên, đời sống: Sự kiêu hãnh giờ chỉ còn dấu vết kỷ vật. Những chiếc lá sen khô đội mưa tìm lại mùa thu đầm Vạc. Những âm thanh trong trẻo vang động đâu đó trong trời đất ngân trên cây thiên cầm thuở ấy (Những chiếc lá sen khô). Khác với những nhà thơ cùng thế hệ, DKM thường chủ ý làm cho những chuyển động của thi ảnh chậm lại so với quy luật thông thường. Trong khi đó, những nhà thơ trẻ cách tân khác thường đẩy tốc độ hình ảnh đi nhanh hơn, bằng cách cắt ngang hình ảnh, tạo khoảng cách lớn, làm phân rã, đột ngột thay đổi quy luật chuyển động…

Nhịp điệu được tiết chế chậm lại trong thơ DKM đã tạo một hiệu ứng khác biệt. Nó diễn tả một thái độ sống, thái độ ứng xử trước nhân thế, cho ta thấy được tâm trạng lưỡng lự của một người vừa yêu vừa chán ngán sự đời. Sương muối giăng mù trời, lòng người lửa đốt. Mười hai tháng trôi qua chớp mắt. Mọi việc chậm chạp, trì trệ gần như ngưng đọng. Mình như con ếch ngắm bầu trời hiếm hoi trong đêm, dường như có điều gì bất ổn nơi từng đám sương từ từ trút xuống chộn rộn mờ ảo.…/ Ngang cõi nhân gian huyền ảo cô lạnh, kia ai cầm ngọn lửa phất qua… (Ghi ở buổi cuối năm). Bàn tay ai cầm ngọn lửa phất qua cho thấy thái độ vừa chằm bặp vừa lơ đãng, vừa trách nhiệm vừa buông bỏ, thờ ơ trong biến ảo khôn lường của đời sống thực tại… Bằng cách “kìm nén” này, nhà thơ DKM đã sáng tạo nhiều bài thơ văn xuôi thành công. Trong bài thơ Tìm sen ở Quan Sơn, ta bắt gặp cách nhìn đờ đẫn, giọng nói chậm rãi cất lên, vừa uể oải vừa minh triết: Chiều xuống, thoáng mưa ngâu nhè nhẹ. Bên rặng phi lao, những em bé gái đeo giỏ mò cua bên cầu Dậm. Núi non hồ nước phủ làn hơi mưa, một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ lộ ra trắng toát.. Mọi cảnh vật ở đây đang diễn ra như nó vốn có, buồn tẻ nhàm chán, hay chộn rộn, mơ hồ… còn tùy ở cảm nhận của người đọc, nhưng cái vẻ trắng toát lộ ra khi một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ đã tạo một hiệu ứng kinh hoàng, khi chính bàn tay con người phá hủy vẻ đẹp nguyên sơ của thiên nhiên. Đọc đến câu cuối, ta thấy tất cả những hình ảnh vừa gặp từ khổ thơ đầu đã không còn ở vị trí cũ, mà xáo trộn, hoảng hốt, vừa muốn gào thét vừa muốn câm lặng…

Gương mặt cô đơn thường hiện lên đa diện, nhiều chiều trong thơ DKM. Những hình ảnh ở khổ thơ đều như đang vận động trong sự đông đảo cõi người, nhưng chúng chuyển động như để làm tròn bổn phận, định phận của mình. Chúng di chuyển như không còn mối liên hệ với chung quanh, trong lẻ loi, cô quạnh: Sự ưu tư buổi cuối chiều đòi hiện trên trang trắng. Bóng tối theo hơi lạnh thấm dần xuyên qua lùm cây, mái nhà, ô cửa/ Cơn khát dục vọng thiêu cháy làm biến dạng những khuôn mặt/ Lại đã để lại phía sau mùa lũ, dòng sông vào đông để lộ những vạt đất bồi, những con chim rẽ giun từ đâu đến mải mê thản nhiên quên cả chiều đã xuống/ Vẫn lùm cây này, vẫn bờ gạch lát, câu chuyện đã là của thế kỷ trước (Những con chim rẽ giun bên vạt sông chiều).

Hình ảnh người mẹ tỏa sáng suốt các tập thơ của DKM, như biểu tượng của nguồn cội, là nơi nhà thơ nương tựa lúc cô đơn, nơi cố hương tiễn biệt và nơi để quay về. Bất cứ câu thơ nào nhắc tới mẹ, mơ hồ chạm hình bóng mẹ, đều vang lên trong tâm hồn nhà thơ rưng rưng tiếng chuông cầu nguyện, niềm khắc khoải khôn nguôi, nỗi nhớ quay quắt, da diết… Một vệt nước trên tán lá, một tiếng hát và bước chân, tiếng mẹ gọi trong chiều khói lam là những giấc mơ dịu dàng: Cơn mưa đêm để lại vệt nước trên tán lá khóm đại hồng môn/ bài ca đuổi theo bước chân trẻ thơ con đường ô tô chạy men đồng bãi/ ai như tiếng mẹ gọi ngôi làng khói tỏa xa xa (Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống). Chiếc giày trên lớp lá thu trong câu thơ sau diễn tả tâm trạng hụt hẫng, phi lý, cô độc của nhà thơ bên phần mộ mẹ: Trên cánh đồng mẹ nằm cô quạnh/ mẹ hằng mong tôi khôn lớn một ngày./ Đâu đó bên hàng song thụ/ trên lớp lá thu còn một chiếc giày… (Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu). Tình cảm ấy lúc như tơ nhện giăng trên mặt hoa mỗi sớm ổ mầm đậu hòa lan mẹ ủ lên mỗi sớm/ Có mùi sương mùi nước/ tuổi thơ ăm ắp buồn (Bướm trắng);  lúc bóng mẹ hiện về ấm áp, bao dung: Mẹ chẳng trách. Mẹ lần lần run rẩy/ nghe tiếng tôi thốt lên phía hiên nhà… (Bên những sợi tơ ánh sáng). Từ tập thơ Tôi ngắm mãi những ngày thu tận, những nỗi đau bệnh tật đôi khi được nhắc tới càng đẩy ông vào cô quạnh. Trong cơn lẻ loi ấy, ông thường cất tiếng gọi mẹ; tiếng gọi ngắt quãng, bập bẹ thơ ngây như thuở còn trong vòng tay âu yếm của Người: Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp, con nghe thấy ngõ quê tinh khôi rải ướt xốn xang bước chân thôn nữ gánh nước ngày cuối năm, cây đào trụi lá nở những bông hoa đầu tiên, hơi xuân tràn về từ những cánh đồng (Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp).

 ***

Những bài thơ cuối của tập thơ Thơ Dương Kiều Minh đã mở thêm những chiều kích khác trong suy tưởng và cảm xúc, là sự tìm đến/ trở về của nhà thơ với vẻ đẹp giản dị và hiện đại. Hơi xuân tràn về từ những cánh đồng… Câu thơ ấy như ánh sáng luôn soi chiếu suốt lộ trình thơ ca DKM, là đích đến phía chân mây, là “nhân đức tin” cho ông vượt qua mọi thử thách, khó khăn để gặt hái những thành công ngoài mong đợi. DKM cùng với các nhà thơ cùng thế hệ đã làm cuộc “vượt thoát” ngoạn mục, tạo nên một khuynh hướng thơ sau 1975, góp phần quan trọng vào cuộc cách tân thơ Việt trong những thập niên qua. Tôi chọn câu thơ trong bài Tự sự bên mùa của DKM để kết thúc bài viết, như một lời cầu chúc cho linh hồn nhà thơ được thảnh thơi ở cõi vĩnh hằng Tỉnh dậy, đã đầu hạ/ âm nhạc reo vang những con đường rộng thênh xa hút ngang qua những nẻo quê, một miền quê bỏ lại…

Hải Phòng, 28/03/2012

MVP



[1] Tên các tập thơ của Dương Kiều Minh:

- Củi lửa (NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn, 1989).

- Dâng mẹ (thơ, NXB Văn hóa, 1990). 

- Những thời đại thanh xuân (thơ, NXB Văn học, 1991).

- Ngày xuống núi (thơ, NXB Văn học, 1995).

- Tựa cửa (thơ, chưa xuất bản, 2001).

- Tôi ngắm mãi những ngày thu tận (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2008).

- Khúc chuyển mùa (thơ, chưa xuất bản, 2011).

- Thơ Dương Kiều Minh (thơ, NXB Hội Nhà văn, 2011 – bổ sung 2 tập thơ chưa xuất bản).

 

 

 

 

Chia sẻ trên Facebook