Tuyển chọn Văn học Việt Nam qua ngôn ngữ của Molière - Bản Tiếng Việt

Vào đêm thứ năm của đời sống vợ chồng thì anh nhận ra khả năng “quan hệ” với vợ của mình hoàn toàn bất lực. Anh hoảng loạn ngồi dậy. Đau đớn và sợ hãi làm thần kinh của anh tê liệt. Anh mở to mắt như mắt của người chết chưa được vuốt, nhìn vợ. Một nỗi nhục nhã đè nặng anh. Với anh, sự nhục nhã này cũng giống như sự nhục nhã về nhân cách.
- Em sẽ đưa anh đi bác sĩ.
Vợ anh, sau một phút kìm nén sự đau khổ, an ủi anh. Nhưng chính cô cũng đang rơi vào một cảm giác hoang mang mà trong đời cô chưa hề gặp. Sau câu nói, cô lết đến bên anh, bàn tay cô âu yếm vuốt ve cơ thể anh. Anh nhìn cô rồi liếc mắt nhìn xuống phần dưới cơ thể mình. Lúc này anh vẫn hy vọng và chờ đợi.
Em sẽ đưa anh đi bác sĩ. Anh đừng lo lắng quá.
Cô thì thào bên anh, giàn giụa nước mắt. Rồi cô đỡ anh nằm xuống. Cô thì thầm kể về một câu chuyện gì đó mong anh vui.
- Nhiều người cũng vậy, nhưng sau đó họ chữa được. Có lẽ… có lẽ… anh… chưa quen…
Nói đến đó mặt cô bừng bừng. Nhưng ngay sau đó cô thấy bổn phận của mình phải giữ cho anh bình tĩnh. Cô còn rất trẻ, nhưng hình như trong trạng thái tình cảm này, những người đàn bà thường bình tĩnh và sáng suốt hơn.
Khi nghĩ rằng anh đã ngủ, cô ngừng tay vuốt ve. Lúc này cô mới âm thầm khóc. Mặc dù cô tin rằng mọi chuyện sẽ tốt đẹp trong vài ngày tới. Rồi sự mệt mỏi của những ngày mới cưới nhấn chìm cô vào giấc ngủ.
Anh vẫn chưa ngủ, nói đúng hơn anh không sao ngủ được. Sự đau đớn và sợ hãi vẫn làm cho cơ bắp của anh tê cứng. Anh nằm bất động nghe tiếng thở đều đều của vợ. Một lát sau, anh ngồi dậy và lặng lẽ bước ra sân. Đêm tháng Giêng ấm nồng và hăng hăng mùi lá mới. Anh ngồi xuống thềm hiên nhà. Hơi thở đêm tháng Giêng làm anh nhẹ bớt.
“Giá ta đừng lớn lên như bây giờ” ! Đó là ý nghĩ đầu tiên ập đến khi óc anh vừa hồi sinh. Thế rồi anh nhớ đến mùa hè năm 1973. Ngày ấy anh mười sáu tuổi và đang theo học cấp ba trường huyện. Một ngày của mùa hè chói chang ấy anh chợt thấy mình lớn bổng lên và mang trên vai một trọng trách, khi người đàn ông hàng xóm ôm lấy đôi vai anh trước khi ra mặt trận và nói với anh như với một người lớn.
“Chú đi nhé, chúc cháu học giỏi. Ở nhà cháu thường xuyên qua nhà động viên cô và giúp em Xuyến học hành. Đánh Mỹ xong chú về”.
Từ ngày ấy anh năng sang nhà cô bé Xuyến hơn. Anh làm tất cả những gì có thể làm được để giúp đỡ vợ con người lính đã đi vào mặt trận. Gia đình anh đông người, nên bố mẹ anh để anh sống và làm việc như một thành viên của gia đình nhà Xuyến. Anh chăm lo bé Xuyến như chăm lo đứa em gái út của mình. Nhiều đêm anh ngủ lại nhà cô. Dù anh vẫn chỉ là cậu bé mười sáu tuổi, nhưng bóng dáng và giọng nói nam giới vẫn mang lại sự ấm cúng và yên tâm cho cái gia đình chỉ có hai mẹ con phụ nữ này.
Mùa hè năm 1974 anh vụt lớn hẳn lên. Trên cơ thể anh đã nở những cơ bắp. Giọng nói anh vỡ ra nóng hổi và khỏe khoắn. Và… đôi mắt của người vợ lính mới ngoài ba mươi kia đôi lúc vụt tối.
Năm ấy, hình như trăng sáng suốt cả ba tháng hè. Nhưng đêm sáng trăng anh ngồi kèm bé Xuyến học ngoài sân, rồi ngủ lại trên chiếc phản gỗ bên cửa sổ. Đêm khuya, người đàn bà vợ lính thường tỉnh giấc. Chị đứng nấp trong bóng tối nhìn anh ngủ. Ánh trăng hắt qua cửa sổ đổ sáng trên cơ thể anh. Ánh trăng tạo những đường gờ trên cơ thể của chàng trai mười bảy tuổi những nét sâu hơnđồng thời làm cho cơ bắp cậu nổi rõ hơn. Những lúc như thế, chị thấy ngực mình tức nghẹn. Chị chóng mặt. Những ngón tay chị run lên buồn bã. Chị đi ra sau nhà và khép cửa sổ nơi anh nằm ngủ. Nhưng bóng tối có sẵn vị trí của nó lại làm cho chị mệt mỏi hơn. Và đồng thời nó cũng như một hình thức nguỵ biện cho những gì mà con mắt của người hành động thấy xấu hổ và dày vò.
Chị đã khóc trên cơ thể ấy. Một hành động đã xảy ra mà không bao giờ chị thoát khỏi đau khổ nhục nhã và hối hận. Anh, chàng trai mười bảy tuổi ngày ấy không hề có một hành động phản ứng, mặc dù những giây phút đầu anh thực sự hoảng sợ. Nhưng sự thân thiện bấy lâu và sự quý trọng của anh đối với chị giữ anh trong im lặng và ran ran đã mê hoặc anh. Chỉ khi hồi tỉnh, thấy chị chắp tay trước anh vừa khóc vừa thì thào thì anh bắt đầu sống trong sự hoảng sợ khôn cùng. Anh nấc lên. Nhìn anh ngồi khóc, chị cảm thấy như một trái cây đang xanh mỡ màng bị đập vỡ.
“Cô lạy cháu. Cô có tội. Cô là ma quỷ. Cô xin cháu, cô van cháu… Cô có tội, giời phật hãy bóp cổ cô đi…”
Những ngày sau đó anh vẫn sang nhà chị và làm những công việc quen thuộc. Nhưng anh không ngủ lại như trước nữa. Cả hai người lặng lẽ. Anh cảm thấy chị gần gũi hơn mà cũng xa cách hơn vạn lần. Còn chị lặng lẽ hơn và thường hoảng hốt. Đôi lúc anh chợt nghe thấy tiếng người lính vọng về. Giọng người lính như nặng hơn, rời rã hơn: “Chú đi nhé. Chúc cháu hỏi giỏi. Ở nhà cháu thường xuyên qua nhà động viên cô và giúp em Xuyến học hành. Đánh Mỹ xong chú về”. Lời dặn dò ấy đối với tuổi anh lúc đó chỉ mang lại cho anh sự hoảng sợ mà thôi. Anh chưa có khái niệm gì về tất cả những điều liên quan khác. Tội lỗi, sự linh nghiệm hay phạm trù đạo lý.
Tháng ba năm 1975, gia đình người vợ lính nhận được tin báo tử của chồng. Người vợ như hóa điên. Trong buổi lễ truy điệu người lính, anh len đứng sau những người dự lễ truy điệu. Qua khe hở của những đầu người đứng trước, anh thấy đôi mắt người lính trong ảnh xuyên qua đó nhìn anh. Anh chuyển chỗ đứng, nhưng đôi mắt vẫn lách qua như khe hở chiếu thẳng vào anh. Kỳ thi vào đại học năm ấy đối với anh thật khó nhọc. Anh cố gắng vượt qua. Sau khi thi xong, anh bỏ nhà ra đi. Anh xuống Hải Phòng với một người anh họ và làm công nhân ở đó.
Ba năm sau anh mới trở về làng nghe tin người vợ lính đã chết. Chị ốm triền miên trong một năm và mất. Cô bé Xuyến khóc nức nở khi gặp anh. Anh cảm thấy mọi điều bất hạnh ập đến gia đình Xuyến là do anh. Ngay lúc đó, óc anh bùng cháy ngọn lửa của sự đòi rửa tội. Anh tự nguyện âm thầm làm mọi việc cho cô bé Xuyến. Anh trở lại Hải Phòng và làm việc điên rồ trong sự im lặng khủng khiếp. Hàng tháng anh gửi tiền cho Xuyến. Anh viết cho cô những lá thư bệnh hoạn. Nhưng chính những lá thư như thế qua từng tháng năm lại nuôi lớn Xuyến trong một tình yêu mãnh liệt đối với anh. Sự đau khổ mất mát của gia đình và tình yêu âm thầm của cô lại làm cho cô có một vẻ đẹp bí ẩn lạ lùng. “Em đợi anh. Cuộc đời em chỉ còn anh thôi”. Những lá thư cô viết cho anh sau này đều là tiếng gọi tha thiết ấy. Cô yêu anh cuồng nhiệt và trong tình yêu ấy có cả sự cuồng nộ vô thức, và sự ám ảnh từ phía sau sự sống nhìn thấy được.
Anh đã ôm xiết cô với cả tình yêu mang đầy ám ảnh và hoảng sợ. Ngày ấy cô bước vào năm thứ hai trường Cao đẳng sư phạm tỉnh. Cô rướn mình lên để áp sát vào anh. Bàn tay anh run rẩy trôi trên những đường cong tuyệt mỹ của cơ thể cô. Dưới lớp da mịn màng của cô có những đợt sóng ngầm trỗi dậy rướn cao lớp lớp xô đến một bến bờ vô hình nào đó.
Nhưng sau những giây phút hạnh phúc ấy thì anh rơi vào trạng thái hoảng loạn. Đêm trăng mùa hè năm 1974 cứ hiện lên trong ký ức anh một màu tối sẫm sập. Anh không lý giải được bất cứ điều gì liên quan đến quá khứ của anh và cũng không sao rũ bỏ được sự hoảng sợ. Sau đó anh quyết định chạy trốn trong ý thức về không gian. Anh đáp tàu thủy đi Đà Nẵng mà không cho một ai biết. Trước khi bước xuống tàu anh đã gửi cho Xuyến một bức thư.
“Tôi là một thứ ma quỷ!” – Xuyến chau mày khi đọc dòng thư đầu tiên như thế. Cô không sao và sẽ không bao giờ hiểu được điều ám ảnh anh. Cô chỉ lo sợ đánh mất tình yêu của cô mà thôi. “Tôi đã quyết định ra đi thật xa. Cần phải làm cho trí nhớ của em về tôi bị chết. Như thế, chúng ta có thể thanh thản được đôi chút. Tôi có tội… em ơi, bố em đã dặn dò tôi… mẹ em đã mất… tôi đã im lặng…. giá ngày ấy. Tôi đã ôm và hôn em. Giá đừng làm thế. Tốt nhất là tôi đừng lớn lên như tôi đã lớn…”.
Thế nhưng tất cả những gì mà Xuyến có, hơi thở lạ lùng của cô, những đường cong trên cơ thể, những lớp sóng ngầm rung vang và cuồn cuộn sau lớp da mịn màng và những tiếng gọi da diết, đơn côi và tội nghiệp của cô, đã gọi anh trở về sau gần ba năm im lặng xa cách. Anh ôm ghì cô. Những lớp sóng từ cơ thể cô đổ kín người anh. Hơi thở và sự thần bí của cơ thể con gái làm trái tim anh buốt nhói vì đam mê… Những tháng ngày xa cách anh đã lý giải và tháo gỡ những chùm gai trong óc anh.
Trở về, anh vội vã cưới cô. Nhưng khi anh chạm vào da thịt cô trên giường cưới thì ký ức xưa trở về trong anh. Nó như một khối đen khổng lồ xù xì và ướt lạnh. Khi anh chuẩn bị bước vào những giây phút thần tiên của đời sống vợ chồng thì có một gương mặt thứ ba mỏng như khói phủ lên mặt vợ anh. Nó thoang thoáng gương mặt của người lính đã đi vào mặt trận một mùa hè chiến tranh và không bao giờ trở về. Nó thoang thoáng gương mặt của người đàn bà vợ người lính đã mất. Đôi lúc nó thoang thoáng giống như những đồ dùng, phương tiện mà người lính thường phải có khi đi ra mặt trận. Anh thấy chiếc lưỡi lê lóe sáng như hàm răng của người điên cười anh. Và anh bị một bàn tay vô hình túm tóc mình mà dúi đầu anh vào đáy hồ của sự kinh hãi. Nó làm tê liệt chức năng bảo tồn nòi giống của anh.
Trong suốt năm đêm đầu của tuần trăng mật, anh sợ hãi đến ngớ ngẩn. Mỗi khi bước vào phòng của vợ chồng anh, anh mang hết ý chí để làm một người đàn ông đầy đủ. Thần kinh anh căng lên tưởng đứt tung. Chính vì thế mà bộ mặt thứ ba đa dạng càng hiện rõ.
Anh trở lại phòng ngủ khi đã khuya. Vợ anh đang ngủ trong sự mệt mỏi và sự chờ đợi buồn bã. Anh đứng nhìn vợ anh tự hiểu rằng: anh khó mà mang lại hạnh phúc cho cô. Anh biết rằng người đau khổ và bất hạnh là cô chứ không phải ai khác trong bốn người thân thiết của cô. Chính cô. Cô không sao biết được rằng sự không hoàn thiện của anh là bắt nguồn từ sự hụt hẫng về tâm lý. Cô tin khoa học sẽ chữa chạy cho anh. Chính vì thế mà cô còn ngủ được, dẫu đó chỉ là một giấc ngủ mệt mỏi và tội nghiệp.
Anh đứng nhìn cô hồi lâu, rồi lúng túng và vụng trộm nhìn xuống phần da thịt của mình đã bị tê liệt mấy ngày nay. Sự nhục nhã và cay đắng xuyên qua đầu anh như một cái thuỗn thép nung đỏ.
“Ta phải ra đi” – ý nghĩ đó ập đến. Và không một đắn đo anh bước đến bên chiếc bàn nhỏ bé và xé một tờ lịch. Anh khêu to ngọn đèn và viết cho vợ một bức thư ngắn:
“Em thương yêu và đau khổ của anh”
“Anh quyết định ra đi đêm nay. Đừng tìm anh và đừng quá lo lắng cho anh. Anh yêu em và thương em hơn hết thảy mọi điều và mọi người trên thế gian này. Anh vô cùng đau khổ. Anh có tội và anh bị trừng phạt. Anh cần rửa sạch tội lỗi của mình để làm một người đàn ông bình thường. Anh sẽ trở về khi anh là một người đàn ông bình thường.»
Viết xong lá thư nhỏ anh bước lại nhìn vợ một lần nữa. Anh định hôn cô nhưng lại thôi vì sợ cô tỉnh giấc. Anh sẽ trở lại Đà Nẵng. Đến khi nào đó, thể xác và tâm linh anh trở lại bình thường, anh sẽ trở về với người vợ bất hạnh của mình. Nghĩ đến đó nước mắt anh ròng ròng chảy ra. Anh bấu những ngón tay vào ngực. Anh muốn kêu to lên một điều gì đó.
Lát sau anh lặng lẽ bước ra khỏi nhà. Đến đầu ngõ vai anh chạm vào một cành duối. Anh khựng lại như chết đứng. Cái vòng tay của người lính hàng xóm trước khi đi vào mặt trtận như đang xiết chặt lấy anh. Anh hoảng hốt bước đi. Có tiếng chân chạy sau anh. Anh hoảng hốt quay lại và nhận ra con chó thân quen của mình. Anh ngồi xuống xoa đầu nó và nói khẽ: “Về đi Vàng, về trông nhà nhé, đi đi”. Con chó liếm vào tay anh rồi lưỡng lự quay về.
Khi lên đến mặt đê làng anh quay lại và đứng khóc rất lâu. Trong ánh sáng mờ mờ của đêm trung tuần tháng Giêng, anh thấy những ngọn tre vươn lên như dáng của một người đàn bà đang chắp tay khóc trước anh. Bỗng từ xa thẳm, gió nóng của những mùa hè chiến tranh thổi rát người anh. Chính nơi anh đã đứng đây, đã bao nhiêu người đàn ông của làng ra đi và không bao giờ trở lại. Và bây giờ, chiến tranh đã kết thúc, nhưng lại là lúc anh phải ra đi. Anh phải đi qua một cuộc chiến tranh không bom đạn, không máu chảy và anh cũng không hiểu mình có thể trở về được nữa hay không.
N.Q.T