Nico-paris.com: Tới thăm Paris, nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế "trót" mê ngay nét duyên dáng của vỉa hè đường phố Paris làm nhà văn Đỗ Phấn bỗng chạnh lòng một thuở vỉa hè Hà Nội. Người ủy mị với nhan sắc Hà Nội thì nhiều, nhưng sống cạn để cháy lòng cùng Hà Nội, để từ tẩn mẩn yêu-thương-tiếc từng viên gạch đến trăn trở cho hơi thở của Hà Nội như anh, còn mấy ai? Trang văn anh, chỉ vài nét phác họa vỉa hè thôi mà sao tấp nập cuộc sống, ánh xạ văn hóa và tinh thần của cả một Hà Nội, xưa và nay, khiến người đang sống ở Hà Nội phải ngoảnh lại, kẻ ở xa thì càng thêm nao nhớ...
Dĩ nhiên là bất cứ cái gì sinh ra trên đời rồi cũng có ngày biến mất. “Nương dâu bãi bể”, “Vật đổi sao dời”. May lắm thì kiếp người cũng chỉ được “Một đời ta muôn vàn đời nó” so với cái tăm. Cụ thể là khoảng bảy vạn chiếc tăm nếu như mỗi ngày dùng hai chiếc cho đến trăm tuổi với điều kiện răng chỉ mọc thêm chứ không rụng đi cái nào. Duy nhà Phật cho rằng có “kiếp” và có “chuyển kiếp”, còn lại không có thứ gì muôn năm cả. Đến như vỉa hè thành phố tưởng chừng là thứ bất biến thì cũng không phải thế. Còn đấy mà không phải.
Những năm 60 của thế kỷ trước, vỉa hè Hà Nội được chia ra làm ba loại rõ ràng. Những tuyến phố cũ trước hòa bình lát gạch chỉ khía vạch chéo chống trơn đỏ au sau mỗi trận mưa rào. Bờ hè được cạp bằng đá xanh. Những viên đá cắt chéo hạ dốc xuống bằng mặt đường nhựa ngay ngắn gọn gàng ở lối xe lên. Phố Thợ Nhuộm còn có những đoạn đường nhựa lẹm sâu vào vỉa hè làm chỗ tránh cho xe cộ. Hà Nội chỉ vài phố như thế và trên cầu Long Biên là có chỗ tránh. Đó là chỉ dấu đầu tiên báo hiệu cho những người đi bộ trong thành phố nhận biết vị trí khiêm nhường của mình. Những tuyến phố được lát gạch vỉa hè sau hòa bình không nhiều. Đa số nằm trên những con đường lớn kéo dài từ trong trung tâm mà ra. Gạch xi măng vuông ba mươi phân xám xịt một màu lổn nhổn những viên sỏi trắng. Xi măng lúc ấy quí hơn gạo và dầu thắp đèn bởi không có phiếu nào mua được. Xin đâu đó một cân bỏ vào vỏ hộp sơn đậy điệm kỹ càng. Thỉnh thoảng mang ra pha loãng để quét chống thấm cho chiếc thùng phuy đựng nước nhà nào cũng có. Và thùng phuy nào thì cũng rò rỉ.
Phần hè phố còn lại của Hà Nội là nền đất bó vỉa bằng bê tông không cốt sắt đúc sẵn theo hình vỉa đá. Khá nhiều. Lác đác gánh gồng và người đi bộ. Không phải nhàn tâm thư thái ngắm nghía phố phường mà chỉ vì không có xe đạp. Đẳng cấp vỉa hè không còn cái sang trọng như thời cụ “Tú men” Nguyễn Văn Tố cầm ô “men” theo những con phố khu chợ Hàng Da. Đó còn là thiên đường trò chơi của lũ trẻ. Tập xe đạp. Trèo me trèo sấu. Đá bóng, đá cầu, nhảy dây. Đánh bài, đánh ô ăn quan. Đánh khăng, đánh xèng, đánh bi, đánh đáo...và đánh nhau. Người lớn có thể xem đít quần của bọn trẻ mà biết chúng vừa chơi trò gì ở phố nào về. Nhìn chung là an toàn. Không cần cấm mà cũng chẳng quản.
Những năm chiến tranh phá hoại, vỉa hè Hà Nội bâng khuâng vắng. Lại một lần nữa “Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may” (Đất nước-Nguyễn Đình Thi). Nhưng lần này thì chẳng có nổi một câu thơ nào hay đến thế. Thực ra lúc ấy Hà Nội cũng không đủ người để đi bộ trên vỉa hè. Người lớn sơ tán theo các cơ quan nhà máy. Đám trẻ sơ tán thỉnh thoảng được bố mẹ cho về thăm nhà ngơ ngác không nhận ra những vỉa hè sôi động trò chơi và bạn bè. Nhiều đứa vừa về đã nằng nặc đòi đi sơ tán tiếp. Mãi đến năm 1969, khi Mỹ chính thức ngừng ném bom đợt đầu học sinh mới được quay về những vỉa hè thân thương của mình. Nhiều đứa đã lớn phổng. Có thể mượn xe đạp người lớn dạo quanh Bờ Hồ xuôi xuống Hàng Bài, phố Huế tán gái. Đám con gái cũng vừa ở nơi sơ tán về đang ra sức tập tành lại tác phong yểu điệu phố phường. Bắt đầu bằng chiếc áo phin nõn cổ cánh bèo mập mờ gợi những đường cong. Quần “phăng” khuy cạnh bó sát như “Chị Nhung” trong phim.
Số còn lại dĩ nhiên vỉa hè. Năm năm sơ tán đã có nhiều đứa được sinh ra và lớn lên. Giờ ra chơi trước cổng trường đông nghịt. Tranh giành nhau từng ô đất trống bày trò. Chen lẫn những hàng rong ô mai, lạc rang, táo dầm, bánh gối, chín tầng mây, kẹo kéo và bi don don. Trẻ trai nhễ nhại đá cầu đá bóng. Trẻ gái nhảy dây chơi chuyền và mài những quả nhót đỏ lựng lên đầu gối cho hết vảy phấn. Vỉa hè trở nên chật chội không chỉ ở cổng trường. Vài chục mét lại một quán nước chè năm xu ngồi la liệt ghế gỗ con thấp tè sát đất. Thuốc lá cuốn giấy Con gà bó chục đựng trong những lọ thủy tinh rộng miệng. Chiếc điếu cày hút thuốc lào thửa mãi trong Ngọc Trạo, Thanh Hóa phát ra tiếng kêu giòn tinh gọi khách. Góc ngã tư nào cũng có một vài bác thợ sửa xe đạp án ngữ treo những chiếc lốp hỏng lên thân cây làm biển hiệu. Vá săm lốp, lau dầu, lộn xích, cân vành. Vài đứa trẻ thôi học cũng ra đường bơm xe. Ăn nhau ở chỗ đứa nào có cái bơm Nga nhãn hiệu Molotova mới đắt khách. Chúng nghĩ ra cách nhún bơm nhịp nhàng không mất sức và cũng là phù hợp với cân nặng trẻ con. Cái nắp chụp trên đầu bơm phải thay sáu tháng một lần vì bị cần bơm mài mòn rộng ngoác. Thế nhưng cũng có những đứa sớm tập nhiễm thói lừa đảo lăn lóc vỉa hè. Chúng cúi mặt chúm miệng xì hơi giả như tiếng van giun bị hỏng. Nhanh tay tháo đầu giun ra xiết mạnh vào miệng van. Giun thủng thật. Khách hàng phải thay. Đoạn ống chun làm giun van có giá bằng bốn lần bơm xe đạp.
Tối mùa hè cắt điện oi bức trải chiếu ra ngoài vỉa hè. Muộn hơn có thể mắc màn chống muỗi ngủ ngay tại chỗ. Vài ông tẩm quất mù cắp chiếu lang thang khắp thành phố cũng dùng vỉa hè làm tiệm massage không mái che của mình. Khách cởi quần áo dài làm gối nằm ườn trên những chiếc chiếu thâm xịt mồ hôi. Cũng xoa bóp, bẻ, vặn, “kiến bò”, “cò mổ” bì bạch không khác gì trong tiệm.
Mới đấy mà đã như xa lắc. Hình hài cái vỉa hè đã muôn phần đổi khác. Không còn được chia ra làm ba loại như trước. Tất cả đều đã được lát gạch nhiều kiểu dáng màu sắc. Rất tùy hứng. Khát vọng tự do hình như dân phố đạt được đầu tiên là ở vỉa hè. Dân giàu có chọn gạch cho vỉa hè trước cửa nhà mình chẳng giống ai. Lại hứng chí bày thêm hai chậu cây lộc vừng tổ bố giữa lối đi. Thành phố cho lát đá xanh thí điểm vài con phố xám xì thấp gần sát mặt đường nhựa. Khổ nhất các cụ già “lỡ bước sang ngang”. Ngật ngưỡng giật mình loạng choạng. Độ cao vỉa hè và độ nhám của gạch lát đã ăn sâu trong trí nhớ các cụ gần hết cuộc đời nay chẳng dùng vào việc đi đứng được nữa.
Vỉa hè Hà Nội bây giờ rất hiếm trẻ con chơi đùa. Một phần do trẻ con ít đi và phần lớn do không còn chỗ nào đủ trống cho chúng chạy nhảy. Trường học khóa cổng im ỉm suốt trong giờ học sinh ở trường. Hàng quán lè phè đuổi đâu chạy đấy nhưng thật lạ vẫn ngày càng nhiều lên. Xe máy ngổn ngang chiếm trọn vỉa hè những phố không cấm. Tang ma cưới xin tự do dựng rạp căng lều như ở làng. Khai trương khánh thành hàng quán nhà cửa còn có cả ban nhạc sống và các vũ nữ cầm quả bông ngoáy mông loạn xạ giữa thanh thiên bạch nhật vỉa hè.
Sợ nhất cái phát minh vĩ đại mang tầm thế kỷ là chiếc biển sắt ba chân sơn đỏ dựng trên vỉa hè đề dòng chữ “Vỉa hè dành cho người đi bộ”. Nó ngang nhiên chiếm chỗ trên vỉa hè và cũng cản trở ít nhất hai người nắm tay nhau đi bộ?
Đ.P
Tranh sơn dầu: Đỗ Phấn