Sấm mất giọng, đỉnh núi già mất bóng – NQT
1. Lời mở
Trước năm 1975, những tìm kiếm để đạt tới lối biểu đạt mới và hiệu quả mới trong tư tưởng thi ca, rất phức tạp, đến nay còn chưa có sự khảo sát, nghiên cứu và đánh giá xác đáng, đầy đủ. Sau năm 1975, giữa lúc đội ngũ đông đảo các nhà thơ trong nước còn mơ hồ, ngờ hoặc về yêu cầu cách tân thơ, thì tập thơ Sự mất ngủ của lửa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Nxb. Lao động, 1992) đã cất tiếng nói khẳng định, đặt dấu mốc quan trọng khai mở dòng chảy thi ca cách tân trở về sau. Tập thơ đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993, và, nhanh chóng làm xáo trộn tư duy đời sống thơ ca đương đại. Ánh sáng của tập thơ đã lan tỏa, tác động tích cực, sâu rộng trong đời sống thơ ca Việt, gây hiệu ứng dây chuyền. Bắt đầu xuất hiện nhiều tác giả trẻ với những cách viết mới lạ, nhiều khuynh hướng mới được hình thành. Hiện tượng tập thơ Sự mất ngủ của lửa, ở chừng mực nào đó gợi chúng ta liên tưởng tới hiện tượng thơ V.V.Mayakovsky của văn học Nga đầu thế kỷ XX; trường ca Đất hoang (The Waste Land) của Thomas Stearns Eliot trong văn học Mỹ những năm 50 thế kỷ vừa qua… Không ai có thể phủ nhận vai trò cột mốc văn học mà những tên tuổi kể trên đã đánh dấu. Thế hệ kế tiếp có thể viết hay hơn V.V.Mayakovsky hoặc T.S.Eliot, nhưng lịch sử văn học mãi ghi công những tác gia mở đường, đặt nền móng cho một khuynh hướng nghệ thuật mới.
2. Sự mất ngủ của lửa và cột mốc cho dòng chảy cách tân
Buổi đầu, tập thơ Sự mất ngủ của lửa đã làm dấy lên những ý kiến tranh luận nhiều chiều, đa dạng những thái độ khen-chê. 20 năm trôi qua cho phép chúng ta gạn đục khơi trong, nhìn nhận một cách khách quan giá trị Sự mất ngủ của lửa. Với tập thơ, Nguyễn Quang Thiều thực sự đã làm cuộc vượt thoát ngoạn mục khi bỏ lại sau lưng những vần điệu, thói quen, cách nhìn đơn tuyến mà ta từng thấy trong tập thơ đầu tay của anh: Ngôi nhà 17 tuổi (Nxb. Thanh niên, 1990).
Nhìn tổng quan về thi pháp, thơ Nguyễn Quang Thiều trong Sự mất ngủ của lửa đã kiến tạo thành công những kết cấu mới, mở ra những liên tưởng phi tuyến tính, và đặc biệt, tạo những hình ảnh lạ lẫm, trương nở, chuyển động nhanh, khác hẳn với những quy luật cũ.
Cái nhìn về Sông Đáy là một thí dụ của khác biệt: Những con thuyền lần ra cửa biển/ Mưa rất dài ướt hết cả dòng sông (Những con thuyền sông Đáy). Nếu những hình ảnh con thuyền, cửa biển, cơn mưa, dòng sông… trong tập Ngôi nhà 17 tuổi vẫn là cách liên tưởng đơn tuyến, quen thuộc, ít gây bất ngờ, thì Sông Đáy trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa đã nhảy một bước dài: Cơn mơvang lên tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc/ Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn. Ở đây, cơn mơ, tiếng cá quẫy tuột câu, tiếng nấc, tôi, cuối nguồn là những hình ảnh cách biệt, xa nhau nhưng cùng cuộn trôi theo một từ trường cảm xúc mạnh, nhất quán, tạo được hiệu ứng không gian và bật lên sức liên tưởng mạnh mẽ: đó là cách liên tưởng đa tuyến. Thơ Nguyễn Quang Thiều thường không áp dụng cố định những thủ pháp của các trào lưu hiện đại, như siêu thực, tượng trưng, biểu hiện,… nhưng câu thơ trên có cách liên tưởng gần với tượng trưng, tạo hiệu ứng về hình ảnh và âm thanh rất kỳ lạ.
Tập thơ Sự mất ngủ của lửa, trước hết, làm bật lên nỗi khao khát về những cuộc lên đường, được giải phóng khỏi những định chế cũ, quan niệm cũ. Những liên tưởng bất ngờ khởi đầu cho cuộc lên đường thoát khỏi cảm hứng và ám ảnh cũ. Cán dậm chúi xuống mặt đường - Những nòng súng gỗ hết đạn…/ Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh những tấm huân chương (Trên đại lộ); Một cơn sốt ngồi ôm một cơn sốt/ Những tiếng ho bình đẳng vỡ làm đôi (Thời gian); Thính cứ ném xuống đời ta không ngủ (Mười một khúc cảm);...
Tính truyện và ngôn ngữ kể gần với ngôn ngữ đời sống cũng là nét đặc sắc trong tập thơ này. Ông viết mà như nói. Nói một cáchnghệ thuật. Kiểu tường thuật này ít xuất hiện trong thơ Việt trước đó, như: Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc về phía bên phải sát mép đại lộ/ Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen…
Yếu tố tính dục và cơn khát giải phóng nó rất mãnh liệt, thánh thiện đã được Việt hóa trong thơ Nguyễn Quang Thiều: Bầu vú em gió núi đã thổi mát rượi (Một bài hát tình yêu của Làng Chùa); Ta ôm nhau ngồi thở trước sao trời (Những ngôi sao);…
Trong nỗi khát khao trở về nguồn cội, với tình yêu quê hương cháy bỏng, nhà thơ tạo nên những thi ảnh vừa ngẫu nhiên, vừa mang tính ám dụ mới mẻ, mãnh liệt: Con muốn lẩn vào khăn áo đám ma quê/ Con muốn đắp lên cơn ho của con tàn hương thơm và ấm (Âm nhạc); Chỉ mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa/ Ngăn ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha phương (Tha phương). Trong Bài hát về cố hương tôi, thi sĩ đã hát bằng khúc ruột mình chôn dưới nắm đất dế giun: Nó thành con giun đất…/ Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao/ Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ/ Bò qua bãi tha ma người làng chết đói/ Đất đùn lên máu chảy dòng dòng…
Từ sau tập thơ Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Quang Thiều luôn chú tâm khai triển toàn bộ tinh thần thi pháp mà ông đã minh định. Nếu gọi Sự mất ngủ của lửa là vạch xuất phát thì đến nay, nhà thơ đã để lại sau mình những xa lộ thênh thang, thẳng băng mà ít có những khúc cua đột ngột. Ở lộ trình này, ông đã làm phong phú, phồn tạp hơn những gì được khai mở trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa bằng chính quá trình nhận diện cuộc sống và hoàn thiện quan điểm thẩm mỹ.
3. Thời đại và nhà thơ
Bóng dáng thời đại và thi pháp là hai vấn đề lớn, mang tính quyết định để định danh định tính thơ Nguyễn Quang Thiều trong lộtrình cách tân thi pháp.
Thơ ông tỏa sáng và khuynh loát trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác nhau, với nhiều cung bậc cảm xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả siêu thực. Thơ ông, dù viết về đời thường dung dị vẫn ẩn chứa tài năng/ tài hoa và sự tinh tế. Những bài thơ Tiếng cười, Con gái ơi, Bầy chó của tôi, Thời gian, Thì thào khu vườn, Về những đồ vật có trên bàn viết,Bữa tối… là những ví dụ tiêu biểu. Bên cạnh những bài thơ về xã hội, triết lý, nhân sinh, tiên tri,… nhiều bài thơ mang tầm vóc thời đại với tầm tư tưởng lớn được Nguyễn Quang Thiều khắc hoạ thành công, với tính khát quát và biểu tượng cao. Các bài như Bầy kiến qua bàn tiệc, Dưới trăng và một bậc cửa, Con bống đen đẻ trứng, Nhịp điệu châu thổ mới, Bài ca những con chim đêm, Nhân chứng của một cái chết, Cây ánh sáng,… là những bức tranh minh họa sắc sảo cho mảng thơ này.
Hiện thực trong thơ Nguyễn Quang Thiều thường được tái hiện như giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải trong những cơn dư chấn; là giấc mơ của người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến hiểm nghèo, hoặc như người vừa chợp mắt đã nhìn thấy những trải nghiệm trong đời thực nhưng được phóng chiếu theo những cách thức khác lạ, có thể cảm nhận được cả hơi thởnóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh hoàng của đời sống trên da thịt.
Thơ Nguyễn Quang Thiều có điểm khác biệt rõ nét với phần đông các nhà thơ đi trước khi thơ ông không có sự mô phỏng, sao chụp rồi đặt vào đó những ẩn ý, chủ ý. Nguyễn Quang Thiều thường bầy tỏ thái độ thẳng thắn, quyết liệt, trực diện nhằm lý giải một cách chính xác nhất bản chất, chân tướng của đời sống: Tôi là con chim sinh đầu hoàng hôn, cuối bình minh chưa biết hót. Cặp mỏ tấy sưng mổ những thì thầm (Bài hát). Đó đồng thời cũng là nỗi khắc khoải, khao khát tự do, công bằng, là chân lý của mọi thế hệ, nhất là thế hệ ông: Cặp mỏ tấy sưng mổ những thì thầm. Khi đọc câu thơ này, tôi chợt nhớ tới hình ảnh đứa trẻtrong đêm tối ngước lên cao nhìn thấy ánh sáng của tự do, khát vọng hạnh phúc trong bài thơ Mây bay qua của nhà thơ Nga Joseph Brodsky (Nobel Văn học 1987): chỉ cần nhìn lên cao mãi, chỉ cần nức nở không cùng, chỉ cần là một đứa trẻ của đêm tối,/ chỉ cần nhìn lên cao mãi, chỉ cần hát và khóc,/ chỉ cần không biết tới nước mắt.” (Mây bay qua, Diễm Châu dịch). Những vẻ đẹp lộng lẫy, rộng lớn nhiều khi hiện hữu trong những điều hết sức bình dị của đời sống, trong hơi thở, trong cử chỉ hành động và lối cảm nghĩ của mỗi chúng ta.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã khắc họa hình ảnh thế hệ mình đang sống trong những câu thơ: Tôi là con chim thay lông muộn và đang tập giọng bằng cặp mỏ mềm còn ứ đầy máu loãng…/ Đợi bài ca sinh ra từ những hạt cơm vương trong chân cỏ dại/ Từ quả trứng buồn vừa bóc vỏ thời gian (Bài hát). Nhà thơ đang mộng du hay mê sảng? Khó ai có thể phân định rạch ròi trạng thái của Nguyễn Quang Thiều từ những bài thơ của ông. Song chính ở trạng thái đặc biệt này, Nguyễn Quang Thiều đã cho người đọc nhìn thấy mọi góc khuất lấp/ khuất tất của đời sống thực tại.
Từ những góc tối ấy có những tiếng nói riêng biệt và đa dạng đang cất lên, tỉnh táo xen lẫn mê dại, thô ráp đan xen với tinh tế:Không còn ai trên cánh đồng mù mắt/ Bà tôi đâu, đòn gánh gãy đâu rồi/ Sấm mất giọng, đỉnh núi già mất bóng/ Mất hay còn, than thở để làm chi (Văn bản lần thứ nhất). Bài thơ Đoản ca về buổi tối ghi nhận tâm thế hãi hùng của một người khi tận mắt chứng kiến những cảnh tượng đời sống bị biến dạng, đổ vỡ: Một góc phố một hiệu kim hoàn bị phá cửa/ Và trong quán rượu một người say đâm chết một người say. Đó là hiện thực hay phi thực? Thật khó mà xác định!
Bức tranh trong thơ Nguyễn Quang Thiều lúc đậm lúc nhạt, khi rõ nét khi nhòe mờ được khắc tạc trong bóng tối sau mỗi ngày chỉvừa đủ hình dung và kích thích trí tưởng tượng phong phú của chúng ta: Chúng ta sống quờ quạng trong những tháng năm bóng tối nham nhở. Nhiều hơn thành phố vùi sâu vào đất. Những thành phố ra đi vĩnh viễn và mang theo những cây đèn. Chúng ta bới đất và nâng những cây đèn, như nâng những thi thể ngừng thở đã lâu nhưng da thịt vẫn còn ấm nóng. (Nhân chứng của một cái chết). Lại thấy hình ảnh những đứa trẻ trong trắng, thơ ngây hiện lên lung linh như những giọt sương treo trên đầu gai nhọn trong khổ thơ sau: Quanh các con tôi thế giới đang tự sát/ Hai đứa bé không hay vẫn bứt lá vườn/ Còn sót lại sau mùa cây sưng phổi/ Bày cơn mơ lên mảnh đất cuối cùng (Con bống đen đẻ trứng).
Nhà thơ nhiều lúc đã phân thân thành kẻ khác, với cái nhìn khách quan, tỉnh táo và lạnh lùng trước nghịch lý đáng sợ của đời sống thực tại: Và vẫn nhìn thấy/ Cuộc làm tình ban ngày/ Của những kẻ thất nghiệp/ Trong chính công sở của họ/ Và vẫn nhìn thấy/ Nơi ngã tư một chiếc xe tải/ Cán nát một cô gái/ Nhưng bó hoa cô cầm trên tay/ Vẫn nở nốt bông cuối cùng/ Và vẫn nhìn thấy/ Linh hồn những người đã chết/ Xếp hàng trước cổng trụ sở Tòa án thành phố (Nhật ký ghi dưới gốc cây gần quảng trường). Chính trong cơn đau đớn, khốn cùng vật vã và cả thất vọng ấy, nhà thơ là người “đi cầu tự cho tương lai của xứ sở mình”.
Có thể nhìn ngắm hiện thực trong thơ Nguyễn Quang Thiều với nhiều gam màu dị biệt, lạnh lùng u tối nhưng không bi lụy, tuyệt vọng,… mà ngược lại, luôn thấy ánh sáng hy vọng, niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tốt đẹp. Đó cũng chính là vẻ đẹp vĩnh cửu và quyền năng tái tạo thế giới của thi ca: Nhìn xa chân trời nơi bình minh hé môi cười là bóng/ Những gót chân đích thực, những gót chân đang khuất/ Như những vệt nước lớn bay hơi nhẹ nhõm không rên rỉ điều gì…/ Cho đến khi từ vòm miệng nồng hôi, nhớp nháp/ Những cái lưỡi của người tìm được lối ra. (Bình minh đang lên). Bằng linh cảm nhạy bén và khả năng tiên tri của thi sĩ, Nguyễn Quang Thiều đã nhìn thấy khoảng cách từ bóng tối tới ánh sáng trong một cự ly quá gần ở đoạn thơ sau: Chúng ta ngỡ bóng tối chứa đầy vũ trụ/ Thực ra chỉ mỏng như màng mắt người mù/ Và chỉ cần bước thêm một bước/ Chúng ta sẽ sáng lên sau những hãi hùng (Bóng tối). “Chỉ cần bước thêm một bước”, đó là cách nghĩ, cách gợi, một gọi mời của thi sĩ khi ranh giới giữa xấu tốt thị phi là… vô cùng mỏng manh.
Những cuộc lên đường cũng là điểm đến trong chuyển động thơ Nguyễn Quang Thiều. Đó là con tằm chui ra từ vỏ kén, là mầm cây bật lên từ khe đá, là cơn mưa xuống ngọn đồi trơ trọc, đích đến phía chân mây mù mịt sương mù, là sự dũng cảm nhích lên nửa bước chân, những mất mát thua thiệt trong đời sống được đền bù: Và giờ đây trong bóng tối của tháng Chạp đông cứng như một chiếc hàm thiếc/ Tỏa rừng rực hơi nóng những bao hạt giống/ trong tiếng nghiến kiên trì khủng khiếp của bánh xe/ đi đến cánh đồng đang chờ quyền phép của tháng Giêng ban tặng (Quyền phép của thời gian).
Sự ra đi trong thơ Nguyễn Quang Thiều là ánh sáng để Dựng lên tất cả những cái thây của bóng tối đầm đìa, để tái tạo hàn gắn, sắp đặt lại thế giới... Đọc thơ ông, ta thấy tương lai tốt đẹp, ngập tràn hy vọng, thấy ấm áp, ân cần: Người đang đến. Người đang trở về/ Con đường tinh kết. Con đường lan tỏa. Đọc đến cuối mỗi bài thơ, bạn đọc như vừa tự tìm được một lối rẽ, tựmình vừa đặt tay lên những nắm cửa để giải thoát mình sang một không gian khác, một hoàn cảnh khác... Thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình (Nhịp điệu châu thổ mới).
Đây cũng là trạng thái thường có khi kết thúc mỗi cơn “mộng du” của thi sĩ Nguyễn Quang Thiều. Ở đó, thường mở ra không gian bất tận để bạn đọc nhận ra mình đang đứng trong áp lực của những cơn gió lớn: Tôi ra sông lấy lòng tay múc một miền nước lớn(Chiếc bình gốm). Và, ông đã thấy Con đường và số phận dân tộc chúng ta từ một đỉnh đồi (Bài ca những con chim đêm).
M.V.P
(Còn tiếp)