5)
Dẫn chứng, trích dẫn
a.
Phân tích, bình luận tác phẩm tất phải có trích dẫn văn bản. Lập luận thì phải
có luận cứ, phải tìm dẫn chứng để thuyết phục.
Nhưng viết nghiên cứu, phê bình không nên
dẫn chứng nhiều. Nhà viết sử văn học nổi tiếng Lăng-xông (G.Lanson) viết về các
nhà văn Pháp, phân tích tác phẩm của họ mà hầu như không trích dẫn một câu văn
nào của ai cả. Vậy mà thế giới hình tượng của các nhà văn ấy vẫn hiện lên trước
mắt độc giả với đặc điểm riêng, phong cách riêng rất cụ thể.
Nói như thế để thấy, phân tích văn mà trích
dẫn la liệt là không hay ho gì. Chỉ nên trích dẫn khi rất cần thiết và câu văn
trích phải rất chọn lọc, phải rất đắt.
Nói về khuynh hướng sử thi trong văn học
Việt Nam những năm chống Mỹ (1965 - 1975) mà dẫn bài Dáng đứng Việt Nam của
Lê Anh Xuân , tùy bút Đường chúng ta đi
và truyện Rừng xà nu của Nguyên Ngọc thì
thật đích đáng. Phân tích tâm lý lãng mạn của con người ta thời kháng chiến tuy
dứng trong gian khổ mà tâm hồn luôn sống với lý tưởng, với tương lai, thiết tha
tưởng không có bằng chứng nào hay hơn là mấy câu thơ Tố Hữu trong "Ba
mươi đời ta có Đảng":
Củ khoai, củ sắn thay cơm
Khoai bùi trong dạ, sắn thơm trong lòng
Hớp ngụm nước suối trong đỡ khát
Trông trời cao mà mát tâm can.
Lấy cảnh nghèo đói của làng quê ta ngày xưa
để giải thích cảm hứng dạt dào của Xuân Diệu trong baì Ngói mới, không
gì thú vị bằng dẫn hai câu thơ lục bát của Trần Đăng Khoa:
Mái tranh ơi hỡi mái tranh
Thấm bao mưa nắng mà thành quê hương![1]
Có trường hợp tôi phải tìm hiểu nhiều dẫn
chứng để khẳng định một luận điểm. Ấy là trường hợp viết về Nguyễn Đình Thi.
Tôi cho rằng Nguyễn Đình Thi có một vùng thẩm mỹ riêng, nghĩa là chỉ viết về
đối tượng ấy thì mới có cảm hứng thật sự và viết hay. Ấy là đất nước đẹp trong
đau thương, lam lũ, bất hạnh:
Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần.
Nhưng Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Ông
viết đủ các thể loại văn và thơ. Vậy muốn thuyết phục được người đọc cũng phải
tìm dẫn chứng trên đủ các thể loại sáng tác ấy. Tìm ra được những bằng chứng
đích đáng, rất đắc ý:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác heo may...
Hình ảnh đất nước như một cơ thể bị cào xé,
đau đớn:
(...) Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
(Đất
nước)
Tượng trưng cho đất nước là những cô thanh
niên xung phong vất vả lam lũ:
Em đứng bên đường
như
quê hương
Vai áo bạc quàng súng trường
(Lá
đỏ)
Tiểu thuyết: Vỡ bờ tập I: đất nước
bất hạnh viết hay hơn Vỡ bờ tập II: đất nước vùng lên, cách mạng thành
công.
Kịch: Nguyễn Đình Thi dường như chỉ có cảm
hứng "Nguyễn Trãi ở Đông Quan", Nguyễn Trãi bị cầm tù, Thăng Long
bị chiếm đóng; không có cảm hứng Nguyễn Trãi ở Lam Sơn, Nguyễn Trãi anh hùng,
đất nước chiến thắng.
Nhưng thú vị nhất là dẫn chứng này: trong
một bài nói chuyện ở lớp viết văn Nguyễn Du khoa I, để minh họa một ý kiến nào
đấy, Nguyễn Đình Thi đã thuật lại một đoạn văn của L.Tônxtôi trong Chiến
tranh và hòa bình: "Nguyên soái Kutudốp chủ trì một hội nghị tướng lĩnh
trong một cái lán của một nông dân Nga giữa cánh đồng. Ông có thói quen ngủ gật
khi người ta bàn cãi về quân sự. Chợt ông tỉnh dậy, thấy ở một góc xó lán, có
một em bé gái Nga lam lũ, tiều tụy, có đôi mắt rất sáng và hồn nhiên nhìn ông
đầy thương mến. Ông xúc động, nói thầm với mình: Đây mới là nước Nga! Em bé gái
kia mới đích thực là nước Nga, chứ không phải là lũ tướng tá đang ba hoa
kia".
Nguyễn Đình Thi kể đến đấy, cảm động quá,
ông khóc và dừng lại, không nói được nữa.
Như gặp một thời cơ may mắn, tôi "chộp"
ngay lấy đoạn thuật kể trên của Nguyễn Đình Thi như một bằng chứng đích đáng.
Vì L.Tônxtôi thực ra có viết như thế đâu! Không hề có em gái Nga ngồi ở góc lán
trước mặt Kutudốp để vị nguyên soái nói thầm với mình một cách thiết tha:
"Đây mới là nước Nga!".
Tôi kết luận: Đây là nước Nga của Nguyễn Đình
Thi chứ không phải của Kutudốp - Nước Nga của Nguyễn Đình Thi mới nghèo khổ và
lam lũ như thế!
Nói chung dẫn chứng phải đích đáng đã đành,
nhưng còn phải đa dạng, mới mẻ, không được trùng lặp, đơn điệu hoặc quá quen
thuộc, ai cũng có thể dẫn ra ngay được. Nghĩa là dẫn chứng phải là một phát
hiện của riêng mình.
Trong bài viết về thơ Chính Hữu mà tôi đặt
tên là: "Chính Hữu hành quân trên những trang thơ", tôi có
nhận xét: thơ Chính Hữu luôn luôn nói đến hành quân, tiến quân. Và tôi rất
sướng khi tìm ra được dẫn chứng này: dưới ngòi bút của nhà thơ, những con chữ
vốn nằm im trên mặt giấy cũng có thể đứng dậy và hành quân: ấy là những con chữ
trong một lá thư của một người vợ dân công gửi chồng bộ đội:
Viết thư cho ta ngổn ngang từng nét
Như gồng như gánh dân công
Ánh mực lập loè đường
xa lửa đuốc..."[2]
b. Viết văn nghị
luận, phê bình nhiều khi phải dựa vào ý một nhà nghiên cứu nào đó làm luận cứ
cho những phán đoán, những luận điểm của mình.
Nhưng cũng không nên
viện dẫn nhiều. Sính trích dẫn sách vở chỉ là bệnh của bọn học trò khoe kiến
thức mới học được. Theo Hoàng Ngọc Hiến, đọc sách đọc vở nhiều khi là rất cần,
nhưng phải "nuốt" vào trong bụng cho nó tiêu hóa đi. Kẻ hay
phô bầy sách vở là kẻ vừa ăn vào lại "nhả" luôn ra trên mặt
giấy. Tức là chưa tiêu hóa để biến thành của mình. Chỉ nên "nhả"
ra những ý kiến riêng của mình thôi.
Tuy thế đôi khi cũng
phải trích dẫn. Mượn ý kiến người khác thì nhất thiết phải trích dẫn. Đấy là
đạo đức khoa học. Nhưng theo tôi câu trích dẫn nên chia làm hai loại:
- Một là loại ý kiến
nổi tiếng, giới văn học ai cũng biết cả - loại này, dù có biết đích xác xuất xứ
cũng không nên nói rõ ra làm gì. Nói rõ những điều ai cũng biết, là sự cẩn thận
của văn học trò, của luận án nghiên cứu sinh. Theo tôi chỉ nên viết thế này:
"Người ta thường nói..." hoặc "Có ai đó đã nói thế
này..." Cẩn thận hơn nữa thì viết: "Có một người Pháp hoặc có
một nhà văn Nga phát biểu thế này...". Để làm duyên có khi lại giả vờ
quên: "hình như có một người Pháp đã nói thế này...".v.v...Nếu
câu trích dẫn hay bài văn trích dẫn quá quen thuộc, thì có thể chỉ trích nửa
câu hoặc chỉ gợi ra một ý, một tình tiết nào đó thôi. Chẳng hạn có thể viết:
"Tôi bỗng nhớ bài thơ "Bất tri tam bách" của Tố Như xưa...
hoặc là: "Tôi bỗng liên tưởng đến nỗi lòng của Giang Châu tư mã trên
bến Tầm Dương của Bạch Cư Dị thuở nào...v.v.."
- Tuy nhiên có những
ý kiến chẳng những phải trích dẫn đầy đủ mà còn phải nói rõ xuất xứ
nữa. Đấy là những ý kiến ít người biết và nhằm làm luận cứ cho một luận điểm
nào đó của riêng mình - một luận điểm mới mẻ, chưa dễ được chấp nhận ngay trong
giới khoa học.
Chẳng hạn, để nói về
quan niệm tình yêu đích thực có cơ sở quan hệ nhục thể giữa nam và nữ (trong
bài viết về thơ Xuân Diệu), tôi phải trích dẫn Ănghen: ông "châm biếm
thứ thơ tình của một nhà thơ đạo đức giả người Đức thế kỷ XIX mà ông gọi là
"thơ tình của một người thiếu bộ máy sinh dục", và ông đã ca ngợi
"thơ tình của Véctơ, một nhà thơ cách mạng, bạn chiến đấu của Mác và
Ănghen đã "biểu hiện một tính nhục dục và những thèm muốn nhục dục thật là
lành mạnh và cường tráng" (Về văn học nghệ thuật (C.Mác và Ph.Ănghen) Nxb
Sự thật, Hà Nội 1958, trang 372)...v.v...[3]
6. Đặt
câu, dùng từ.
Ở đây không nói
chuyện viết sao cho đúng ngữ pháp, câu có đủ thành phần chủ vị, đủ mệnh đề
chính, mệnh đề phụ. Ở đây chỉ nói yêu cầu viết sao cho hay. Cũng không nói
chuyện phải dùng từ đúng nghĩa mà nói dùng từ sao cho hay. Đặt câu dùng từ cho
hay, theo kinh nghiệm của tôi, nên đạt được những yêu cầu sau đây:
a. Hòa phối âm thanh,
nhịp điệu:
Để câu văn dễ lọt tai
người đọc, phải cân nhắc âm thanh nhịp điệu. Điều này đòi hỏi phải có vốn từ từ
ngữ phong phú để chọn chữ chẳng những phải đúng nghĩa mà còn phải có thanh điệu
trầm bổng nhịp nhàng. Điều này hết sức quan trọng đối với những câu dài, nhiều
mệnh đề chồng chất. Phải vận dụng luật bằng trắc, vận dụng phép đối ý, đối
thanh cho hài hòa. Không đạt được như thế thì câu văn trở nên lủng củng, ý
nghĩa tối tăm, rối rắm. Đây là chỗ cần đến cái tai thẩm âm tinh tế của người
viết văn nghị luận, phê bình. Nguyễn Tuân nói rất đúng: "Có những tiếng
những chữ mỗi lần vác từ trong kho dân tộc ra mà dùng, cần phải gieo nó xuống,
cần phải gõ nó lên mà đo lại cả những vòng ngân vang hưởng của nó".
Đây là đoạn văn tôi
so sánh sự giống nhau và khác nhau giữa hình ảnh Bác Hồ trong bài Tức cảnh
Pác bó với hình ảnh Nguyễn Trãi trong Côn Sơn ca. Giống nhau ở phong thái
ung dung, tâm hồn chan hòa với tạo vật trong cái gọi là "thú lâm
tuyền". Nhưng đồng thời lại rất khác nhau:
"Dĩ nhiên
giữa hai nhà thơ của hai thời đại, ta vẫn nhớ có khoảng cách dài dặc của mấy
trăm năm lịch sử. Cho nên một người lấy đá Côn Sơn làm chiếu, một người lấy đá
Pácbó làm bàn, tuy cùng chung một tình cảm gắn bó, chan hòa đối với tạo vật,
nhưng thái độ xã hội, triết lý nhân sinh, vẫn có những chỗ khác nhau về căn
bản. Người này tin ở thiên cơ, thiên mệnh, gặp khi thời thế đảo điên không thể
phò đời cứu nước, đành lui về bầu bạn với mây ngàn hạc nội, phách suối đàn
thông. Người kia nắm chắc quy luật khách quan của lịch sử, đoán chắc thời cơ
cách mạng, mượn núi rừng làm nơi căn cứ địa để xây dựng lực lượng, nhen nhóm
phong trào, chuẩn bị cho những cơn bão táp của lịch sử. Một đằng là triết lý
của người ẩn sĩ, từng nếm trải bao phen vinh nhục, cảm thấy đời người như mây
nổi, như chiêm bao, muốn dẫn mình trong chốn lâm tuyền, nhập thân vào giữa cái
mênh mông vĩnh cửu của tạo vật. Một đằng là triết lý của người chiến sĩ, triết
lý cải tạo thế giới để con người hoàn toàn làm chủ thiên nhiên, làm chủ lịch
sử, làm chủ vận mệnh của mình"[4].
Tạo âm thanh, nhịp
điệu, hay nói chung, tạo tính nhạc cho câu văn xuôi, có điều này rất nên cảnh
giác với mình: nếu không cẩn thận, dễ tạo nên lối diễn đạt du dương dễ dãi với
những từ ngữ 'văn vẻ" có tính "cải lương mùi mẫn" hết sức phản
cảm đối với người sành sỏi văn chương. Điều kiện quyết định ở đây là phải có
cái tai thẩm âm tinh tế.
(Còn nữa)