Đọc xong bài“Lâu
rồi không khóc" của Đỗ Phấn, vẩn vơ mãi, những ý nghĩ cứ quanh quẩn, vương vấn và thế là cầm bút ghi lại đôi điều về chuyện.... khóc.
Thế nào là khóc? Nói một cách đơn giản, ngắn gọn, khóc là trái ngược với cười. Để miêu tả việc khóc, người ta thường dùng: âm thanh và hình ảnh (khuôn mặt, giọt lệ...). Nhiều khi ta cứ nghĩ, ở đời ai khóc mà chả thế, giống nhau cả thôi: cũng là nhỏ lệ, kẻ nhiều, người ít; cũng là phát ra những thanh âm (nức nở, ai oán) to nhỏ khác nhau... Nhưng thực ra không phải chỉ đơn giản thế. Việc khóc cũng có ba bảy đường, theo năm bảy kiểu khác nhau. Có người khóc không ra nước mắt, "nước mắt chảy vào trong" như Nguyễn Khuyến khóc Dương
Khuê, như Hoàng Lộc từng khóc bạn:“Khóc anh không nước mắt / Mà lòng đau như cắt"; lại có người khóc rống lên, khóc hu hu, nước mắt lu bù mà hóa ra nước mắt...cá sấu, giống ối kẻ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng.
Khóc, nhìn chung là do đau đớn, buồn phiền, tủi nhục, đói rét, đắng cay... mà khóc; nhưng nhiều khi cảm động, sướng vui... cũng khóc " Vui sướng ô hay sao mẹ khóc / Cờ ta hát mãi suốt đêm qua " (Thanh Hải ) hoặc khóc như người con gái hôm mới cưới, về nhà chồng "Khấp như thiếu nữ vu quy nhật". Khóc có khi thành tiếng nức nở nghẹn ngào, nhưng nhiều khi chỉ là những tiếng nấc âm thầm, xa xót “Đĩa dầu với, nước mắt đầy năm canh"( Nguyễn Du)...
Chính vì thế tả người khóc tưởng dễ mà không dễ tí nào, nhất là phải tả nhiều đối tượng, với những tính chất và tình huống khóc khác nhau. Ví như hãy tả một em bé khóc, rồi lại tả một bà lão, một ông già, một người đàn ông hay một phụ nữ khóc... hay thử tả tiếng khóc của chính mình cả khi vui lẫn lúc buồn.
Nghĩ thế lại nhớ tới Nam Cao. Trong những trang viết của ông, có nhiều đoạn văn tả người khóc, kể về chuyện khóc thật hay. Một anh văn sĩ Hộ uống rượu say mèm, suốt đêm gây sự, đánh chửi vợ mình, rồi sáng hôm sau tỉnh rượu, nghĩ mà đắng cay, chua xót... thế là khóc:" Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc... Ôi chao! Hắn khóc. Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc . Hắn ôm chặt bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc." (Đời thừa)
Đọc truyện Nghèo sẽ bắt gặp những giọt nước mắt của anh đĩ Chuột khóc trước khi thắt cổ tự tử vì lâm vào cảnh nhà quá túng quẫn:" Người cha khốn nạn nhìn đứa con chòng chọc, thơ dại. Một giọt lệ từ từ lăn xuống chiếu... Anh thấy lòng chua xót, nước mắt giàn ra hai má lõm . Rồi anh quả quyết, đứng thẳng người lên chui đầu vào trong, cái thừng cứng cáp cọ vào cổ làm anh rùng mình, khóc nấc lên một tiếng. Cả cái thân hình mảnh dẻ bắt đầu rung chuyển như một tàu lá run trước gió".
Đến truyện Dì Hảo lại thấy Nam Cao tả tiếng khóc của một người phụ nữ khốn khổ: " Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cứ khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thổ. Dì thổ ra nước mắt."
Nhiều lúc tôi chợt nghĩ, "vũ khí" ghê gớm nhất của một người đàn bà hình như không phải là vẻ đẹp thân xác. Điều ghê gớm nhất ở họ là... nước mắt. Khi một phụ nữ rơi nước mắt, ta dễ mềm lòng lắm và cơn nóng giận cũng tan thành mây khói rất nhanh. Ai mà cầm lòng được khi gặp một dì Hảo khóc như thế.
Tuy vậy, sẽ là khủng khiếp hơn nhiều khi phải chứng kiến cảnh một người đàn ông già cả... khóc. Khóc như lão Hạc này đây:" Lão cố làm ra vẻ vui. Nhưng
trông lão cười như mếu và
đôi mắt ầng ậng nước... Mặt lão đột nhiên
co dúm lại. Những vết nhăn
xô lại với nhau,
ép cho nước mắt chảy ra .
Cái đầu lão ngoẹo về một bên
và cái miệng móm mém của lão mếu như con
nít . Lão hu hu khóc ..." (Lão Hạc)
Lão Hạc, dì Hảo, anh đĩ Chuột hay văn sĩ Hộ khóc là chuyện bình thường, nhưng khi Chí Phèo
khóc thì có vẻ hơi lạ. Trong thiên truyện này có hai lần Chí khóc. Lần đầu, khi Thị Nở nấu cháo “bỏ vào cái rổ mang ra cho Chí
Phèo”. Lúc ấy Chí “thấy mắt hình
như ươn ướt”. Hắn khóc do cảm động, do đây là “lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. Xưa nay, nào hắn có thấy ai tự nhiên cho cái
gì”. Lần thứ hai Chí khóc khi bị Thị Nở từ chối không ở lại, thị “ngoay ngoáy cái mông đít ra về”, không những thế lại còn giúi thêm
cho Chí một cái làm “hắn lăn khèo xuống sân”. Lúc ấy, Chí nghĩ phải uống thật say để đến đâm chết cả nhà Thị Nở, nhưng tức quá “càng uống càng tỉnh. Tỉnh ra, chao ôi,
buồn”… thế rồi hắn khóc. Lần này hắn khóc thành tiếng “hắn ôm mặt khóc
rưng rức”.
Lý giải tại sao trong
tình cảnh ấy, Chí lại khóc
“rưng rức”, nhiều người đều cho
là vì hắn bị phụ tình,
bị Thị Nở từ chối thẳng thừng… Hắn khóc
vì uất ức. Nhìn
hình thức thì có vẻ đúng thế, nhưng xem
kỹ thấy hình
như không
phải thế. Chí khóc
lúc đang
tỉnh, hắn thấy đổ vỡ nhanh
quá cái hạnh phúc có thật, vừa cầm nắm được; vừa chớm lóe,
mới say sưa đấy mà đã
thành mây khói… Cái hương cháo hành- biểu tượng của lòng
cảm
thông, sự ân cần, ấm cúng
tình người - cứ quanh đi quẩn lại,
thoang thoảng trong tâm trí hắn càng
làm cho Chí thấy tuyệt vọng, càng thấy thân
phận mình
sao hẩm hiu đến thế. Người như Thị Nở mà
cũng chối bỏ y một cách hách dịch và cong cớn thế thì còn gì tủi hơn. Tôi
nghĩ lần này Chí khóc chủ yếu là do
tủi thân, tủi phận. Khóc vì còn muốn làm
người.
Sau này
trong cuốn truyện “Côi cút giữa cảnh đời”, Ma Văn Kháng viết về tiếng khóc
của bé Thảm, theo
lời của người kể thì đó
cũng là tiếng khóc tủi thân, tủi phận: “Em Thảm hay tủi thân lắm. Em khóc nhiều hơn những
đứa trẻ khác. Em khóc suốt cữ, và tiếng
khóc cũng khác những đứa trẻ khác. Có khi đang ngủ, tự
nhiên em múm mím môi, rồi
nhếch miệng hự hự mấy tiếng rất
ảo não. Em mang nỗi ấm ức
xót xa trong kí ức non
nớt của em. Bà bảo em nhớ mẹ, em tủi
phận đấy. Và đêm nào cũng vậy, không ít hơn một lần,
đang ngủ bỗng dưng bừng
thức với tiếng khóc hờn
dỗi kéo dài khoảng gần một
giờ đồng hồ. Khóc vì đói thì chỉ cần
cho em ăn là em nín. Vì rét thì ủ
thêm chăn cho em. Vì nóng thì bế
em ra sân cho em thoáng. Còn vì tủi thì dỗ
thế nào em cũng không
nguôi.”
Xem ra nỗi đau về vật chất dễ chữa hơn nhiều nỗi đau về tinh
thần. Và
tôi nghĩ đã là người bình thường thì
phải biết cười, biết khóc.
Nhưng không
biết khóc
kinh khủng hơn rất nhiều không
biết cười.
Không phải ngẫu nhiên mà con người vừa sinh
ra đã phải học khóc, đúng như ông
Nguyễn Gia
Thiều đã thở than
trong Cung oán ngâm:“Thảo
nào khi mới chôn nhau- Đã mang tiếng
khóc ban đầu mà ra”. Thế mà tôi
từng biết, từng
nghe, có nơi con chết, mẹ không
khóc; vợ mất, chồng dửng dưng,… Và
điều khủng khiếp hơn, không
chỉ một người mà cả một dân tộc đã rơi vào
tình trạng không biết khóc.
Không khóc không phải vì
không thương, không xót mà do đớn đau
và bạo tàn
đã vượt quá sức chịu đựng của con
người; khi ấy thanh
âm, ngôn ngữ chỉ biết lặng câm
và nước mắt đã
hóa đá - Đấy là tình cảnh đất nước
Campuchia sau những năm tháng đau thương dưới chế độ diệt chủng Khơ-me đỏ.
Khi cả một dân tộc không
biết khóc
thì khủng khiếp biết chừng nào!
Đ.N.T - 04/05/2012